Việt Văn Mới
Việt Văn Mới
        


TẠI SAO PHẢI “THẤY TÁNH”
THÌ MỚI
“THÀNH PHẬT” ĐƯỢC ?

  


C ho đến thời này thì lời của Chư Tổ : “KIẾN TÁNH KHỞI TU” hoặc “THẤY TÁNH THÀNH PHẬT” không còn nghe Phật Tử nào, kể cả Chư Tăng nói đến nữa. Mọi người đua nhau cất Chùa thật lớn, dựng tượng ngày càng cao để Thờ Phật, tôn vinh Phật để cầu xin được phù hộ, độ trì mà thôi. Trong Đạo Phật có việc “Thấy Tánh” hay không ? Người tu Phật có cần “Thấy” không ? Hay chỉ cần Thờ Phật và cầu xin Phật Độ là đủ ? Phật có “Độ” cho bá tánh không ?

Mục đích của việc Tu Phật là để “Thành Phật”. Nhưng lời Thọ Ký “Tất cả chúng sanh là Phật sẽ thành” đã bị lớp Phàm Tăng trong sắc áo Đệ Tử nhà Phật làm cho mất dấu. Họ dựa vào lời Kinh, rồi “Y Kinh giải nghĩa”, biến Phật thành Thần Linh để “Cứu khổ, cứu nạn, phù hộ độ trì” cho bá tánh, để rồi họ ở giữa làm trung gian chuyển lời cầu xin của bá tánh đến Phật, và biến những Phật Tử thành những “Gã Cùng tử” ngày ngày cầu xin Phật Độ, không còn biết là mình cũng có khả năng để Thành Phật nữa !

Nhưng Phật là Vị Giác Ngộ, là vị có thể “Cứu độ Tam Thiên Đại Thiên thế giới” thì làm sao người trần mắt thịt có thể tu hành để đạt địa vị đó được?

Đó là sự hiểu lầm về Phật mà Phật Tử đã bị chồng mê từ mấy ngàn năm qua, xuất phát từ những người chưa hiểu Đạo, nhưng vì danh, vì lợi của con đường tu hành mà xông ra giảng Đạo ! Thời Chư Tổ còn hiện diện thì mỗi thời chỉ một mình Tổ, vừa đào tạo đệ tử, vừa giảng Pháp cho bá tánh. Nhưng kể từ thời Lục Tổ Huệ Năng được Truyền Y bát, cũng do sự tranh chấp Y Bát của phe bên kia quá quyết liệt. Người giữ Y bát có nguy cơ mất mạng, nên Ngũ Tổ bảo Lục Tổ nên dấu Y Bát đi, không truyền nữa. Kể từ đó mạnh ai nấy ra giảng dạy. Tu lâu, hay mới tu, hiểu ít, hiểu nhiều, miễn đầy đủ hình tướng đầu tròn áo vuông là có thể chễm chệ ngồi Tòa thuyết pháp ! Hậu quả là cho đến nay Đạo Phật không khác gì những tôn giáo Thần quyền khác. Cũng tôn thờ Giáo Chủ và cầu xin bớt rủi, thêm may. Phù hộ độ trì khi còn sống. Lúc chết thì rước về Tây Phương Cực Lạc !

Nhưng quan trọng là Phật có khả năng để phù hộ cho những ai cầu xin, cũng như có quyền rước vong linh người chết về Tây Phương Cực Lạc của Ngài không ?

Muốn hiểu điều đó buộc chúng ta phải quay lại nhân duyên Phát Tâm của Thái Tử Sĩ Đạt Ta cũng như hành trình gọi là tu hành của Ngài, xem Ngài đã Hành những gì ? Chứng Đắc những gì ? Những điều đó có khả năng biến Ngài thành Thần Linh, có thể phù hộ độ trì cho mọi người không ?

Lịch sử tu hành của Đức Thích Ca được ghi lại rất rõ : Là một Thái Tử của một nước nhỏ, sắp nối ngôi. Có vợ và 1 con trai còn nhỏ. Nhân một lần đi dạo ở ngoại thành, trông thấy cảnh con người GIÀ, BỆNH, CHẾT làm Thái Tử động tâm. Ngài hỏi viên quan hầu cận là bản thân ngài có phải chịu những cảnh như thế không ? Thì viên quan trả lời là bất cứ ai, dù giàu sang hay nghèo hèn đều giống nhau. Đã SINH ra thì phải đến giai đoạn GIÀ, BỆNH, CHẾT, không thể tránh khỏi.

Về nhà, Thái Tử trăn trở mãi, không biết có cách nào để Thoát những điều đó không ? Thấy rằng nếu cứ tiếp tục sống trong cung, cả ngày bận bịu, hết việc triều chính lại đến vợ con. Tai lúc nào cũng nghe những lời du dương, những lời xưng tụng. Mắt luôn nhìn thấy những cảnh giàu sang, ngọc ngà châu báu, nhung gấm lụa là, thì không có thì giờ tập trung suy nghĩ tìm câu trả lời được, nên trong một đêm, Thái Tử cùng với người giữ ngựa lén ra khỏi thành.

Đi được một quãng khá xa. Thái Tử bảo người giữ ngựa mang ngựa về để một mình ngài lang thang, gia nhập vào trong đoàn du Tăng, hy vọng sẽ tìm được lời giải đáp.

Sáu năm học với sáu người thầy giỏi nhất và học hết những tuyệt kỷ của họ. Thái Tử cũng kinh qua hầu hết các phương pháp hành trì được gọi là tu hành thời đó. Nào là lõa thể, khổ hạnh, nhịn ăn, mỗi ngày chỉ ăn một hột mè làm thân thế suy kiệt suýt chết, nhưng vẫn không có lời giải đáp.

Đến một ngày, Thái Tử chợt nhận ra : “Tinh thần không thể minh mẫn trong một thể xác yếu đuối”, nên đã nhận bát cháo sữa của cô gái chăn bò, rồi trả tòa cỏ, ngồi Thiền Định dưới cội cây Bồ Đề. Rạng sáng đêm thứ 49 thì Thái Tử đắc đạo.

Pháp được cho là “Đắc đạo” của Thái Tử, chỉ là tìm ra được thủ phạm của Sinh Tử Luân Hồi, và cách thức khống chế được hắn, là điều đã khiến Thái Tử trăn trở suốt bao nhiêu năm dài. Chỉ có thế thôi. Không có thần thông, phép mầu nào để biến Thái Tử từ một con người bình thường trở thành Thần Linh, có quyền phép cứu độ cho ai hết.

Từ khi Đắc Đạo Thái Tử xưng mình là Phật Thích Ca Mâu NI (Sakyamuni. Theo giải thích thì nghĩa của Phật Thích Ca là “Người cạo đầu xuất gia đã tu hành thành công của tộc Thích Ca”.

Lẽ ra, nếu là người muốn học hỏi theo Đức Thích Ca thì phải tìm hiểu xem Ngài đã tu như thế nào ? Đã hành những gì ? Đã Đắc gì để gọi là “Đắc Đạo” ? Cái Đắc Đạo của Ngài có cứu được cho bá tánh hay không ? Tại sao Ngài Ngồi Thiền chỉ có 49 ngày đêm mà Đắc Đạo, trong khi người thời sau có khi Ngồi cả đời cũng không Đắc Đạo ? Đạo Phật có bí mật nào dấu để truyền riêng hay không ?

Lần lượt chúng ta sẽ tìm hiểu. Bắt đầu từ cái Phát Tâm của Ngài khi còn là Thái Tử. Theo đó, chúng ta có thể thấy, mục đích bỏ ngai vàng để ra đi của Thái Tử, là tìm cách chiến thắng những nồi Khổ của SINH, LÃO, BỆNH, TỬ diễn ra trên cái Thân con người.

Kết quả của Ngài đã khám phá ra, gọi là “Đắc Đạo”, có nghĩa là GẶP ĐƯỢC hay TÌM RA ĐƯỢC CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT. Đó là tìm ra thủ phạm đã xây lên Ngôi Nhà Sinh Tử và phá hủy vật liệu của hắn để hắn không thể xây nhà được nữa. Chỉ có thế thôi. Ngài không có đắc phép mầu hay Thần Thông nào để có thể cứu độ cho bất cứ ai.

Vậy thủ phạm đó là ai ? Vật liệu của hắn gồm những gì ?

Theo khám phá của Đức Thích Ca, Bản chất thật sự của con người là VÔ TƯỚNG, TRƯỜNG TỒN, KHÔNG SINH, KHÔNG TỬ. Nhưng vì CÁI BIẾT MÊ LẦM, (hay còn gọi là VỌNG TÂM), đã TƯỞNG LẦM CÁI THÂN HỮU TƯỚNG ĐANG MANG LÀ MÌNH, HAY TA. TRONG KHI ĐÓ, NÓ CHỈ LÀ CÁI THÂN VAY MƯỢN CỦA TỨ ĐẠI CHO NHÂN QUẢ THỂ HIỆN, CHỈ ĐI THEO MÌNH MỘT KIẾP NÀY MÀ THÔI. Do đó, ngày giờ nào con người còn để cho cái VỌNG TÂM điều khiển là còn ở trong vòng SINH TỬ LUÂN HỒI. Chỉ khi nào con người chịu GIÁC NGỘ, hết MÊ, ý thức được cái CHÂN TÂM, hay CHÂN TÁNH hoặc gọi bằng tên khác là BỔN THỂ TÂM, cái THẬT MÌNH thì mới kết thúc Vòng SINH TỬ LUÂN HỒI, được GIẢI THOÁT.

Lý do có SINH TỬ LUÂN HỒI ? Điều gì ràng buộc để phải Giải Thoát ?

Sở dĩ có LUÂN HỒI là do NHÂN QUẢ. Theo Đức Thích Ca. Do VÔ MINH tức là không sáng suốt, nên con người đã Hành động. Từ việc Chấp lấy cái Thân Tứ Đại Giả Tạm là Mình, mỗi người đã hành động rồi sinh ra một chuỗi Duyên khác tiếp nối thành Vòng THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN để cuối cùng là SINH, LÃO, BỆNH, TỬ, Ưu Bi Khổ não.

Theo giải thích của Đức Thích Ca, sở dĩ con người có mặt ở trần gian là do cái NHÂN đã gieo từ kiếp trước, nên kiếp này phải nhận cái Thân Tứ Đại để TRẢ những gì đã gieo - nếu đó là việc xấu - và nhận những gì tốt đẹp, nếu đó là Nhân Thiện. Chừng nào Nghiệp hết, Duyên hết thì cái Thân sẽ hoàn trả lại cho Tứ Đại, gọi là Chết. Nhưng trong thời gian tồn tại, mỗi người vừa TRẢ những cái Quả đã gieo, lại tiếp tục gieo những cái NHÂN mới. Chính vì vậy mà sau khi bỏ cái Thân cũ lại phải nhận một cái Thân mới. Cứ thế nên vòng quay Luân Hồi lại tiếp tục, cho đến chừng nào hết VÔ MINH, ngưng tạo Nghiệp thì mới chấm dứt.

Muốn hết VÔ MINH thì phải có TRÍ HUỆ.

Muốn có TRÍ HUỆ thì phải QUÁN SÁT, TƯ DUY. Do vậy mà trong Đạo Phật có THIỀN QUÁN hay THIỀN MINH SÁT (VIPASSANA).

Phải Quán Sát và Tư Duy những gì ?

Con người đã có Cái Thân thì ngoài việc phải theo Quy Luật SINH, LÃO BỆNH, TỬ , mà suốt kiếp sống còn bị LỤC CĂN điều khiển, bị ràng buộc bởi nó. Khi chưa biết đến con đường tu Phật thì chúng ta cho Cái Thân là MÌNH. Lúc nào cũng bênh vực nó, muốn cho nó được những điều tốt đẹp, thậm chí tạo Ác Nghiệp cũng nhằm phục vụ cho nó. Trong khi đó, Đạo Phật nói rằng nó chỉ là Cái Thân Giả Tạm. Kinh DUY MA CẬT dạy Quán Cái Thân như sau :

“Này các Nhân Giả ! Cái Huyển Thân này thật là Vô Thường. Nó không có sức, không mạnh, không bền chắc, là vật mau hư hoại, thật không thể tin cậy. Nó là cái ổ chứa nhóm những thứ khổ não bệnh hoạn. Các Nhân Giả ! Người có trí sáng suốt không bao giờ nương cậy nó. Nếu xét cho kỹ thì cái Thân này như đống bọt, không thể cầm nắm. Thân này như bóng nổi, không thể còn lâu; Thân này như ánh nẳng dợn giữa đồng, do lòng Khát Ái sanh; Thân này như cây chuối không bền chắc; Thân này như đồ huyển thuật, do nơi điên đảo mà ra; Thân này như cảnh chiêm bao, do hư vọng mà thấy có; Thân này như bóng của hình, do nghiệp duyên hiện. Thân này như vang của tiếng, do nhân duyên thành; Thân này như mây nổi, trong giây phút tiêu tan; Thân này như điện chớp, sanh diệt rất lẹ; Thân này không chủ, như là Đất. Thân này không có ta, như là Lửa; Thân này không truờng thọ, như là Gió; Thân này không có nhân, như là Nước; Thân này không thật, bởi Tứ Đại Giả Hợp mà thành; Thân này vốn Không, nếu lìa Ngã và Ngã Sở. Thân này vô tri, như cây cỏ; ngói, đá; Thân này không có làm ra (vô tác), do gió Nghiệp chuyển lay; Thân này là bất tịnh, chứa đầy những thứ dơ bẩn; Thân này là giả dối, dầu có tắm rửa ăn mặc tử tế rốt cuộc nó cũng tan rã; Thân này là tai họa, vì đủ các thứ bệnh hoạn khổ não; Thân này như giếng khô trên gò, vì nó bị sự già yếu ép ngặt; Thân này không chắc chắn, vì thế nào nó cũng phải chết; Thân này như rắn độc, như kẻ cuớp giặc, như chốn không tụ, vì do Ấm, Giới, Nhập hợp thành”.

Cái Thân bằng vật chất chỉ tồn tại nhiều lắm là một trăm năm. Nhưng trong thời gian nó tồn tại, nhiều người đã vì nó mà Tham, Sân, Si, thương, ghét.. tạo bao nhiêu là Ác Nghiệp, rồi làm khổ mình và mọi người chung quanh. Mắt thấy thì Tâm sinh, rồi có quyền thì dùng quyền. Có thế thì dùng thế. Quyền chức càng cao thì sức tác hại càng lớn. Không có quyền thì dùng thủ đoạn, tranh giành từ địa vị cho tới đất đai, tiền bạc, địa vị… làm cuộc sống của bản thân và chung quanh là những chuỗi ngày đau khổ, bất an, trong khi cuộc sống giới hạn, không đầy trăm năm ! Chính vì vậy mà Đức Thích Ca đã tìm ra cách thức giúp cho con người có được kiếp sống an vui, hạnh phúc. Kiếp sau, nếu có, càng tốt đẹp hơn.

Tu Phật là để được Thoát Khổ, hết Khổ. Người muốn được Thoát Khổ thì phải theo hướng dẫn của Đạo Phật để quán sát nguyên nhân của cái Khổ.

Đạo Phật đưa ra KHỔ ĐẾ, gồm KHỔ, TẬP, DIỆT, ĐẠO để người muốn Thoát Khổ theo đó mà quán sát, rồi muốn có kết quả thì hành theo : Đó là cảnh KHỔ mà kiếp người phải gánh chịu là : SANH, LÃO, BỆNH, TỬ, ÁI BIỆT LY, CẦU BẤT ĐẮC, OÁN TẮNG HỘI và NGŨ ẤM THẠNH.

Có THÂN là có KHỔ. Đã SINH ra thì không thoát được cảnh Già yếu, Bệnh hoạn, cuối cùng là Chết. Trong lúc còn đang tồn tại thì lại phải chịu những cảnh người yêu thương mà phải xa lìa, kẻ không ưa mà cứ phải gặp. Rồi thì cầu mong không được, bám vào ngũ uẩn càng làm làm thêm Khổ.

Tập Đế là những nguyên nhân làm cho Khổ, nhưng người không biết cứ tiếp tục theo những thói quen cũ, nên nỗi Khổ cứ chất chồng.

DIỆT ĐẾ là cách thức để chấm dứt nỗi Khổ và ĐẠO ĐẾ là CON ĐƯỜNG ĐỂ CHẤM DỨT NỖI KHỔ. Con Đường này là BÁT CHÁNH ĐẠO hay BÁT THÁNH ĐẠO mà người kiên trì hành theo sẽ được Thoát Khổ.

Thời Phật tại thế, có một số Tỳ Kheo sau khi quán sát cái Thân, thấy nó đầy tội lỗi, xấu xa thì thuê người giết họ, tưởng rằng bỏ nó đi thì sẽ hết Khổ, được giải thoát. Nhưng họ quên lời Phật dạy : “Nhân Thân nan đắc”. Có được Thân người không phải dễ, vì trong quá trình Vô Minh, có nhiều người tạo quá nhiều Ác nghiệp nên phải đọa vào Ba đường dưới, tức là Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sinh, mà khi đã rớt vào Ba Đường Dưới rồi, thì cơ hội được trở lại làm con người rất hiếm !

Tuy cái Thân làm ra nhiều điều tồi tệ, nhưng lỗi không phải do nó, mà do phần khác, Vô Tướng, ở bên trong nó điều khiển. Phần này Phật đặt tên là CÁI TÂM, hoặc có tên khác là CÁI BIẾT hay THẦN THỨC. Phần này rất linh hoạt, chính nó mới là chủ nhân, đánh giá các Pháp đến với Thân, cho là đến với Mình, rồi điều khiển, sai khiến Cái Thân đáp trả. Thân chỉ là tai sai để giúp nó thực hiện thôi. Đó là Thủ Phạm làm ra cảnh SINH TỬ LUÂN HỒI mà Đức Thích Ca đã tìm ra, gọi là Đắc Đạo sau 49 ngày đêm Thiền Định. Do đó, mà người tu Phật được dạy không cần khống chế hay hành hạ Cái Thân, mà phải Điều Phục hay chuyển hóa chính chủ nhân của cái Thân là Cái TÂM. Khi Cái Tâm hết Mê Lầm, thì nó không còn sai Cái Thân tạo Nghiệp nữa. Do vậy, tu Phật được gọi là TU TÂM.

Phật dạy dù chỉ là cái Thân giả tạm, nhưng trong nó diệu dược, tức là Phật Tánh, là cái Mầm Giải Thoát. Người tu phải tìm được cái Phật Tánh thì mới có thể Giải Thoát, mà nghĩa khác của Giải Thoát là Thành Phật. Tất cả mọi người đều có PHẬT TÁNH, tức là mọi người đều có khả năng để Thành Phật, nhưng phải tu hành thì mới thấy. Kinh VIÊN GIÁC có Kệ :

“Phật Tánh tuy sẵn có

Phải tu mới hiển hiện

Cũng như vàng sẵn có

Phải lọc quặng mới thành”

Dù vàng đã nằm sẵn trong quặng, nhưng không lọc thì không lấy ra được. Công việc lọc quặng tức là loại bỏ những tạp chất. Tạp chất đó gọi là Chúng Sinh. Do đó, Kinh dạy : Muốn Thành Phật thì phải Diệt Độ Chúng Sinh.

Trong Tâm của mỗi chúng ta có tình trạng gọi là PHÀM THÁNH ĐỒNG CƯ, tức là có cả tốt lẩn xấu. Tu Phật là loại bỏ hay chuyển hóa những cái xấu – gọi là Chúng Sinh đi, để chỉ còn lại tình trạng thanh tịnh, tốt đẹp.

Trong PHÁP BẢO ĐÀN KINH, Lục Tổ Huệ Năng chỉ rất rõ về Chúng Sinh :

“Chư Thiện Tri Thức ! Chúng Sanh trong Tâm mình tức là : Lòng tà mê, lòng bất thiện, lòng ghen ghét, lòng ác độc. Các tâm này đều gọi chung là Chúng Sinh. Mỗi người phải dùng Tánh của mình mà độ lấy mình mới gọi là thiệt độ”.

Sao gọi là dùng Tánh mình mà độ lấy mình ? Nghĩa là các Chúng sanh trong Tâm, là Tà Kiến, Phiền Não, Ngu si, phải đem Chánh Kiến mà hóa độ các tánh xấu ấy. Đã có sẳn Chánh Kiến thì phải dùng Trí Bát Nhã mà đánh dẹp các Chúng sanh Ngu si, mê vọng. Mỗi mỗi mình phải độ lấy mình. Tà đến lấy Chánh mà độ. Mê lại dùng Ngộ mà độ. Dữ lại dùng Lành mà độ. Độ như thế mới gọi là thiệt độ”.

Qua trăn trở của Thái Tử Sĩ Đạt Ta cũng như cách thức mà Ngài Đắc Đạo, Thành Phật, ta thấy không phải bằng những phương pháp nào khác mà chỉ nhờ THIỀN QUÁN (VIPASSANA) để có được kết quả gọi là “Đắc Đạo”. Tất nhiên lúc đó Ngài mới THẤY, mới tìm ra được CON ĐƯỜNG. Sau đó phải hành trì một thời gian nữa để THÀNH ĐẠO.

Theo Đức Thích Ca, con người khi đã SINH ra thì cuối cùng đều phải CHẾT. Nhưng trong thời gian tồn tại, con người phải đối phó với biết bao nhiêu cảnh KHỔ hành hạ. Không những thế. CHẾT không phải là hết, mà do lúc sống mỗi người lại tiếp tục Tạo Nghiệp, nên sau khi rời bỏ Cái Thân Tứ Đại, gọi là CHẾT, thì mỗi người lại phải nhận một cái THÂN mới, để Trả những gì vừa gieo, gọi là Luân Hồi. Vì thế, Pháp mà Đức Thích Ca truyền lại cho chúng ta là cách thức thế nào để tiếp tục sống giữa đời mà không còn bị cái KHỔ hành hạ, được hạnh phúc, an vui. Nếu có tái sinh thì cũng được về cảnh giới tốt đẹp. Muốn vậy thì phải qua một quy trình gọi là tu hành :

1/- Phải Giữ GIỚI, để ngưng chạy theo Các Pháp. Lúc nào cũng đi trong Bát Chánh Đạo. Người lúc nào cũng Chánh Tư Duy thì sẽ không có những hành động hay lời nói thiếu kiểm soát nên cũng không tạo Nghiệp.

2/- Nghe Pháp, học Pháp, rồi Quán sát, Tư Duy (THIỀN QUÁN) để có sự hiểu biết về Con Đường Thoát Khổ.

3/- Phải hiểu thế nào là KHỔ và cách thức để Giải Thoát, rồi thực hành theo. Phần Lý càng vững vàng chừng nào thì khi thực hành sẽ không thối chí.

4/- Biết cái KHỔ là do CHẤP cái Thân Ngũ Uẩn là Ta, thì tìm hiểu về Cái Thân xem lời Phật, Tổ dạy. Nếu ta chấp nhận được cái Lý đó thì không còn bám theo cái Thân để chịu sự điều khiển của Lục Căn nữa, mà dùng nó để hỗ trợ cho công việc tu hành.

5/- Phải Thiền Quán để có Trí Huệ, rồi dùng Trí Huệ để phá vô Minh. Biến Vọng Tâm thành Chân Tâm, Phiền Não thành Giải Thoát. Khi đã tìm được cái CHÂN TÂM hay BỔN THỂ TÂM rồi thì sẽ Bỏ Giả về Chân, không còn để cho Lục Căn chạy theo Lục Trần nữa, bằng những hành động cụ thể được chứng minh bằng cách giảm lần THAM, SÂN, SI, THƯƠNG, GHÉT.. bởi những hành vi đó chứng tỏ còn lệ thuộc vào Cái Thân. Thấy Pháp đến với Thân là đến với Mình, nên mới khởi Ghét, Thương. Tất nhiên, không phải chỉ cần nói bỏ là có thể bỏ được ngay, mà phải tập, nên mới gọi là tu tập. Không bám lấy cái Thân thì sẽ không vì nó mà tranh giành vật chất trần gian một cách bất chính nên không tạo Ác Nghiệp. Trái lại chỉ có Từ, Bi, Hỉ, xã, nên nhờ đó mà sẽ không còn phiền não nữa.

Từ một phàm phu chỉ biết cái Thân Tứ Đại, cho đó là Mình, rồi tìm mọi cách để cung ứng mọi nhu cầu cho nó. Nhờ Đạo Phật hướng dẫn đế Quán sát, tư duy, phân tích đúng, sai, người tu sẽ thấy được cái Thật Mình, Vô Tướng, bất sinh bất diệt, song hành với Cái Thân, gọi là Thấy Tánh. Nhưng Thấy Tánh không phải là Thành Phật ngay, mà “Kiến Tánh khởi tu”. Chư vị giác ngộ ví người Thấy Tánh như một con Sư tử, lạc vào bầy chó rừng từ nhỏ. Lớn lên cùng với bầy chó rừng. Ăn thực phẩm giống như nó. Kếu tiếng kêu cũng giống nó. Từ lúc nhận ra mình là Sư Tử thì ngưng không ăn thực phẩm hôi nhơ giống như chó rừng nữa và rống lên tiếng rống oai vệ của Chúa sơn lâm và trở về với đàn của mình.

Tóm lại, nếu không Thấy Tánh hay thấy được cái Bổn Thể Tâm của mình, thì con người không thể hành trì để Giải Thoát được, mà cứ bám vào cái Thân Giả, rồi hoặc tạo Ác Nghiệp vì nó, hoặc có tạo Thiện Nghiệp thì cũng là để dành cho nó hưởng trong kiếp vị lai.

Kinh Lăng Nghiêm dạy : “Chứng Thánh hay đọa phàm cũng bởi Lục Căn chứ không có con đường nào khác” . Lục Căn thuộc về Cái Thân, nên nếu không chuyển hóa được nó thì nó sẽ mang Lục Trần xâm nhập vào làm rối loan cái Tâm của mình. Hành giả phải Quán Sát, Tư Duy để hiểu đúng về Thân, về Tâm. Khi biết rằng cái Thân chỉ là cái Thân Nghiệp, không phải là Mình, thì những gì do nó đánh giá rồi cho ra phản ứng cũng đâu phải của Mình ? bởi nó dùng thước đo là Cái Thân, rồi Yêu, Ghét do thích hợp với Cái Thân hay không. Vì thế, Phật gọi đó là Vọng Tâm, không phải Cái Chân Tâm. Chân Tâm phải là cái BIẾT HẾT, THẤY HẾT MÀ KHÔNG VƯỚNG MẮC. Kinh Tâm Địa Quán viết :

“Trong Ba cõi lấy Tâm làm chủ. Người quán được Tâm được giải thoát cứu cánh. Người không quán được Tâm ở mãi trong triền phược. V í như muôn vật đều từ đất sinh. Tâm Pháp sinh ra Thiện, Ác, Năm thú (Trời, người, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh), bậc hữu học và vô học, bậc Độc Giác. Bậc Bồ Tát cũng Như Lai trong thế gian và xuất thế gian. Bởi nhân duyên ấy, Ba cõi duy Tâm. “Tâm” là “địa”.

“Các vị còn trong phàm phu địa, không Quán Tự Tâm, nên phải trôi giạt trong bể Sinh Tử. Chư Phật, Bồ Tát vì Quán được Tâm, nên qua được bể Sinh Tử, đến bờ Niết Bàn”.

Tất cả những Quả Vị, Thánh Thánh, Thành Phật, không phải để người tu cao cả hay hơn thua với người đời, mà chỉ là phương tiện để con người bỏ giả về Chân, không còn bị cảnh Khổ hành hạ, được an lạc, hạnh phúc trong kiếp sống. Chưa dừng ở đó. Người tu cần hành trì để có được THÂN PHẬT. Kinh viết :

“Các Nhân Giả ! Hãy nên nhàm chán cái Thân này, chớ tham tiếc nó. Phải nên ưa muốn Thân Phật. Vì sao ? Vì Thân Phật là PHÁP THÂN, do vô lượng Công Đức Trí Tuệ sanh; Do Giới Định, Tuệ, Giải Thoát, Giải Thoát Tri Kiến sanh; Do Từ, Bi, Hỉ, Xả sanh. Do Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn Nhục, cần Hành, Tinh Tấn , Thiền Định, Giải Thoát Tam Muội, Đa văn, Trí Tuệ, các Pháp Ba La Mật sanh, Do Phương Tiện sanh, Do Lục Thông, Tam Minh sanh, Do 37 Phẩm Trợ Đạo sanh; Do Chỉ Quán sanh, Do Thập Lục, Tứ Vô Sở Úy , Thập Bát Bất Cộng sanh;Do đoạn tất cả pháp bất Thiện, tu các pháp Thiện sanh; Do Chân Thật sanh; Do không buông lung sanh; Do vô lượng pháp Thanh Tịnh như thế sanh ra Thân Như Lai”.

Đó mới là mục đích tối hậu của Đạo Phật vậy.  -/.

Tháng 9/2025




VVM.24.10.2025.