Việt Văn Mới
Việt Văn Mới
        


KHÁM PHÁ SÁU CỬA
VÀO ĐỘNG THIẾU THẤT của TỔ ĐẠT MA

  

     Lời nói đầu :

Trong những Bộ Kinh ĐẠI THỪA thì có Quyển Kinh SÁU CỬA VÀO ĐỘNG THIẾU THẤT của Tổ Đạt Ma và PHÁP BẢO ĐÀN KINH của Lục Tổ Huệ Năng, là của hai Vị Tổ gần thời với chúng ta nhất. Vì thế những gì các Ngài giải thích chi tiết về một số vấn đề thiết yếu của Đạo, người tu đọc sẽ thấy dễ hiểu, dễ nắm bắt để đưa vào thực hành.

Năm 2002 tôi đã lược giải cả Hai Quyển này, được Nhà Xuất Bản Tôn Giáo cấp phép và đã in ra. Nhưng để đọc cho hết cũng mất một số thời gian. Vì thế, tôi xin rút gọn lại thêm, cho những người ít thì giờ đọc Kinh có thể nắm được ý chính. Hy vọng nhấn mạnh được một số điểm mà Tổ đã giải thích, nhưng nhiều người vẫn còn thấy khó hiểu. Chính vì vậy, đến thời này rồi mà việc Tu Tâm cũng ít được đề cập đến, cứ cho là muốn tu hành thì phải bỏ đời, vô Chùa, cạo tóc, đắp Y làm Sa Môn mới được xem là người tu Phật, dù cách đây hàng ngàn năm trước Chư Tổ luôn nhắc nhở “Muốn tìm Phật thà tìm Tâm”, “Tức Tâm tức Phật”.

Nhân đây cũng xin trích dẫn Tiếu Sử của Tổ Đạt Ma, vì nhiều người không hiểu vì sao Đạo Phật được Đức Thích Ca truyền bá tại Ấn Độ mà Trung Quốc lại có mấy vị Tổ cũng xưng là Tổ của Đạo Phật ? Vì sao Tổ Huệ Năng là Lục Tổ, tức Tổ Thứ Sáu, mà lại kiêm luôn Tổ thứ 33 ? Hy vọng bớt chút thời gian cho người muốn tìm hiểu nhưng không có thì giờ, sẽ thấy những lời Tổ dạy trong đây để hiểu rằng chỉ cần Thấy được cái Tâm rồi chuyển hóa nó, cho nó Cải Ác, hành Thiện thì đó đã là người tu. Việc tu hành ở trong Chùa hay ngoài Chùa không quan trọng, vì nếu hành trì giống nhau đều đạt được kết quả như nhau, hình tướng không ảnh hưởng gì đến việc tu hành vậy.

Kính,

Tâm Nguyện


       I.

T iểu Sử Tổ ĐẠT MA :

Theo Sử 33 Vị Tổ, Đạt Ma Tổ sư là Tổ thứ 28 của Ấn Độ, là con của Thứ Ba của Vua Hương Chí thuộc giòng dõi Sát Đế Lợi, đắc pháp với Tổ thứ 27 là Bát Nhã Đa La.

Sau khi đắc pháp, Ngài hỏi sư phụ là nên đi hoằng hóa ở đâu ? thì sư phụ bảo “sau khi ta diệt độ rồi nên sang nước Trung Hoa mà truyền đạo”.

Sau khi Sư Phụ nhập diệt. Tổ Đạt Ma đã dùng thuyền, mất 3 năm mới đến Nam Hải, nhằm triều Vua Lương Võ Đế. Quan Thứ Sử Quảng Châu nghe tin Ngài đến liền nghinh tiếp, rồi báo cho Vua Lương Võ Đế hay. Nghe tin có Tổ Sư từ bên Ấn Độ sang, nên Vua bèn xuống chiếu triệu Tổ Đạt Ma đến yết kiến.

Trong khi tiếp kiến, Vua hỏi Tổ : “Từ lúc lên ngôi đến giờ, trẫm đã làm nhiều việc, như lập Chùa, in Kinh và độ Tăng rất nhiều. Như vậy có Công Đức gì không ? “.

Tổ Đạt Ma trả lời : “Không có công đức”.

Vua lại hỏi : “Làm thế nào mới là chân công đức” ?

Đáp : “Trí thanh tịnh vốn vắng lặng, tròn đầy, nhiệm mầu, công đức như vậy chẳng phải lấy thế pháp mà cầu được”.

Vua hỏi : “Nghĩa thứ nhất trong Thánh Đế ra sao ?

Đáp: “Rỗng rang không có cái gì là Thánh”.

Vua hỏi : Vậy đối trước mặt trẫm là ai ?

Đáp :” Không biết”.

Vua nghe nói thế chẳng hiểu gì. Ngài Đạt Ma bèn từ giả, sau đó đi về Giang Bắc, tới xứ Lạc Dương thuộc Tỉnh Hà Nam, vào ngụ ở Chùa Thiếu Lâm tại núi Tung Sơn, ngồi day mặt vô vách lặng im suốt ngày, nên người thời đó gọi Tổ là Bà La Môn tu Bích Quán.

Tổ Đạt Ma ngồi diện bích như thế đến 9 năm. Sau đó có thầy Thần Quang, nghe danh mới tìm đến tham vấn. nhưng Tổ Đạt Ma vẫn im lặng, ngó vô vách, không nói tiếng nào. Thần Quang không nản lòng, dù lúc đó mùa Đông, tuyết rơi, nhưng vẫn đứng trước sân. Tuyết rơi ngập cả nửa ống chân mà không bỏ đi. Tổ Đạt Ma thấy vậy mới hỏi là “Ngươi chẳng nài khổ cực, đến đây đứng giữa tuyết lạnh suốt đêm để cầu việc chi ? “. Thần Quang trả lời là “mong Hòa Thượng mở lòng từ bi, mở môn cam lộ, rộng độ quần sanh”.

Tổ Đạt Ma bảo : “Muốn cầu Đạo Vô Thuợng nhiệm mầu của chư Phật thì phải nhờ cái sức tinh cần của nhiều kiếp. Phải làm những việc khó làm, nhẫn những việc khó nhẫn. Nếu lấy cái đức nhỏ nhen, cái trí cạn cợt và cái Tâm khinh mạn mà muốn cầu đạo chân chính thì nhọc công vô ích”.

Thần Quang nghe vậy nghĩ rằng Tổ cho rằng cái Tâm cầu đạo của mình chưa đủ, nên lén lấy thanh đao tự chặt đứt cánh tay trái, đem để trước mặt Tổ để chứng tỏ lòng thành cầu đạo.

Tổ Đạt Ma thấy vậy biết rằng đó là bậc pháp khí nên nhận và đổi tên Thần Quang thành Huệ Khả.

Khi truyền Y bát lại cho Huệ Khả thì Tổ dặn dò : “Xưa Phật Thích Ca đem Chánh Pháp Nhãn tạng truyền cho Ngài Ca Diếp, rồi truyền lần xuống đến đời ta. Nay ta phú lại cho người, phải gắng chí hộ trì cho Phật Pháp đặng miên trường. Ta truyền cái Y ca Sa này cho người để làm món biểu tín. Trong thì truyền Pháp Ấn khế hợp Chân Tâm, ngoài thì phú pháp để định phần tộng chỉ, vì đời sau thói người bạc bẽo, hay đem lòng tranh cạnh, nghi ngờ. Nếu không có cái Y ấy thì chắc chắn họ nói rằng người là người Trung Hoa, có lẽ nào lại đắc pháp với ta là người Ấn Độ, thì đây là bằng cớ để làm chứng, nhớ giữ gìn cho cẩn thận. Nếu ngày sau có gặp tai nạn gì, người hãy đem cái Y ấy ra làm biểu tín cho người ta biết. Sau khi ta diệt độ rồi, cách hai trăm năm thì cái Y ấy không truyền nữa, vì lúc đó phật pháp thạnh hành khắp cả hằng sa quốc độ, người đắc đạo, chứng quả có trên hàng ngàn vạn”.

Tổ đọc Kệ :

Ta đến xứ Trung Quốc

Truyền Pháp cứu mê tình

Một bông nảy năm cánh

Kết quả tự nhiên thành”.

Ngài kể cho Huệ Khả nghe: Từ khi ta sang qua xứ này cho đến nay, đã năm phen bị trúng độc. Ta từng đem món độc ấy ra mà thí nghiệm, để trên đá thì đá bể tan. Ngươi phải biết cái nguyên nhân của ta đã vượt biển mà đến đây, là thấy ở xứ này có bậc Căn Khí Đại Thừa, nên ta vì pháp mà đi tìm người, chẳng nại công lao khó nhọc. Nay người lãnh thọ y pháp thì bổn phận của ta đã viên mãn rồi.”.

Khi ngài phó chúc mọi việc rồi thì dắt môn nhân qua Chùa Thiên Thánh ở Võ Môn. Có Dương huyền Chi là quan Thái Thú trấn quận Kỳ Thanh đến ra mắt và hỏi : “ Bạch Đại Sư. Tôi nghe cả trong năm xứ Ấn Độ chỉ có mình ngài thừa tự được Phật Pháp mà làm Tổ, này lại truyền bá qua quốc độ của chúng tôi. Vậy chẳng hay Đạo ấy thế nào, xin từ bi chỉ bảo’.

Tổ Đạt Ma nói : “Nếu phát minh được cái tâm Tông của Chư Phật. “Hạnh” và “Giới” cho in nhau thì mới gọi là Tổ”.

Huyễn Chí thưa rằng : “Bạch Đại Sư. Đệ tử lâu nay thiệt hết lòng kính thờ ngôi Tam Bảo, nhưng vì Tâm còn mờ tối, trí chưa mở mang. Vậy xin Ngài thắp đuốc quang minh mà dắt đệ tử vào đường Chánh Đạo”.

Tổ Đạt Ma đọc Kệ :

Chớ nghe sự ác mà nhàm chê

Đừng thấy điều lành mà gắng gổ

Chớ bỏ kẻ trí gần người ngu

Dừng ném cái Mê tìm chỗ Ngộ

Thông rồi Chánh Đạo vượt thường tình

Tỏ đặng Phật Tông hơn thế độ

Cũng không theo Thánh, chẳng theo phàm

Siêu nhiên như vậy gọi là Tổ.

Huyễn Chi nghe bài Kệ rồi liền lạy và bạch rằng : “Cúi xin tôn sư mở lòng từ mẫn, trụ cõi thế gian này lâu lâu trước là phổ độ quần sanh , sau đệ tử được học hỏi”.

Tổ đáp : “Hóa duyên của ta đã hết và truyền pháp đã có người rồi. Hôm nay chính là ngày viên tịch của ta”. Dứt lời, Tổ ngồi ngay ngắn mà nhập diệt.

Môn nhân đưa linh cửu của Tổ lên núi Hùng Nhĩ mà an táng bên Chùa Định Lâm.

Ba năm sau, Tống Văn phụng mạng đi sứ bên Tây Vực, lúc trở về ngang qua núi Thông Lãnh chợt thấy Ngài tay cầm chiếc dép mà đi có một mình. Tống Vân lấy làm lạ bèn hỏi : “Bạch Ngài đi đâu đây” ?

Tổ đáp : Ta đi về Tây Thiên.

Khi Tống Vân về nước thuật chuyện lại cho triều thần và Tăng chúng nghe, thì mọi người đều kinh ngạc, bèn khai cửa Tháp và mở nắp quan tài ra xem. Quả nhiên không thấy hài cốt của Tổ, chỉ còn một chiếc dép da. Lúc đó ai cũng cho là linh dị phi thường.

Sau Vua hay việc ấy bèn hạ chiếu dạy thỉnh chiếc dép còn lại đó đem về Chùa Thiếu Lâm để cúng dường và làm kỷ niệm. Vì vậy nên phần nhiều trong Chùa thờ tuợng Tổ nơi tay có cầm một chiếc dép.

Tổ Đạt Ma có để lại quyển KINH có tên là SÁU CỬA VÀO ĐỘNG THIẾU THẤT. Có nghĩa là SÁU CẢNH CỬA để người sau có thể vô bất cứ Cửa nào cũng tới được nơi Tổ đã tu hành ngày trước là ĐỘNG THIẾU THẤT.

Chúng ta sẽ bắt đầu khám phá…

CỬA THỨ NHẤT :

TÂM KINH TỤNG

MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH

Trong Sử 33 Vị Tổ, phần nói về Tổ Đạt Ma, không thấy đề cập đến Bát Nhã Tâm Kinh. Nhưng ngay Cửa Thứ Nhất có tựa đề là Tâm Kinh Tụng ta đã thấy có vấn đề rồi : Kinh sách là tâm huyết của Chư Vị Giác Ngộ để lại. Trong đó là những lời giải thích, hướng dẫn những điều cần làm trên con đường tu Phật. Do đó, Kinh là để chúng ta đọc, tìm hiểu rồi thực hành, không phải để mang ra tụng ! Chư Phật đã Giác Ngộ, đâu có cần chúng ta tụng Kinh cho nghe ? Người cần hiểu, cần thực hành là chúng ta. Không phải là các Vị. Tuy vậy, Tụng cũng có hai ý nghĩa : Một là nói về sự thường xuyên đọc đi đọc lại cho nhớ. Hai là đọc trầm bỗng lên xuống theo nhịp, có âm thanh phụ họa như là hát. Nếu như thế thì việc Tụng Kinh đó chẳng có ích lợi gì cho người tụng.

Rất có thể từ xa xưa, một Cao Tăng nào đó thấy Bát Nhã Tâm Kinh là quan trọng, là cần thiết, vì thấy Kinh viết : “Ba đời Chư Phật đều y theo Bát Nhã Tâm Kinh mà đắc Vô Thượng Bồ Đề”, nên mang ghép chung vô với những bài giảng của Tổ Đạt Ma rồi cho đó là lời của Tổ chăng ? Bởi cả 5 Cửa còn lại, đều giải thích bằng văn xuôi. Trong khi Bát Nhã Tâm Kinh rất ngắn, chỉ có 260 chữ, thì lại được giải thích bằng 37 bài Kệ. Nhưng điều quan trọng là nội dung của Bát Nhã Tâm Kinh hoàn toàn theo ảnh hưởng của bên Nhà THIỀN : Cho rằng chỉ cần soi chiếu thấy Ngũ Uấn là KHÔNG thì không còn khổ não. Tất cả đều KHÔNG, kể cả Vô Minh, Sanh Tử, Chứng Đắc, Niết Bàn. Kinh cho rằng người hiểu như thế là có Trí Huệ, là Đạt Vô Thượng Bồ Đề, là qua bờ bên kia, Giác Ngộ rồi !

Để làm rõ, xin lần lượt phân tích dưới đây.

Trích toàn văn BÁT NHÃ TÂM KINH : MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH

Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Nật Đa thời, chiếu kiến Ngũ Uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách.

Xá Lợi Tử ! Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc, Sắc tức thì Không, Không tức thị Sắc. Thọ, Tưởng, Hành, Thức, diệt phục như thị.

Xá Lợi Tử ! Thị chư pháp không tướng. Bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung, vô Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp; vô Nhãn Giới nải chí vô Ý Thức Giới; vô Vô Minh diệc, vô Vô Minh tận, nải chí vô Lão Tử diệc vô Lão Tử tận, vô Khổ, Tập, Diệt, Đạo; vô Trí diệc vô đắc. Dĩ vô sở đắc cố. Bồ Đề tát đỏa y Bát Nhã Ba La Mật Đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tuởng cứu cánh Niệt Bàn.

Tam Thế Chư Phật y Bát Nhã Ba La Mật Đa cố, đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

Cố tri Bát Nhã Ba La Mật Đa, thị Đại Thần Chú, thị Đại Minh Chú, thị Vô Thượng đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư.

Cố thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa chú, tức thuyết chú viết :

“Yết đế, yết đế, ba la yết đế, Ba la tăng yết đế, Bồ Đề tát bà ha”.

Bản Việt dịch của BÁT NHÃ TÂM KINH

Ngài Quán Tự Tại khi hành thâm sâu về Trí Huệ Bát Nhã Ba La Mật thì soi thấy Năm Uẩn đều là KHÔNG, do đó vượt qua mọi khổ đau, ách nạn.

Này Xá Lợi Tử ! SẮC chẳng khác gì KHÔNG. KHÔNG chẳng khác gì SẮC. SẮC chính là KHÔNG. KHÔNG chính là SẮC. THỌ, TƯỞNG, HÀNH, THỨC cũng đều như thế.

Này Xá Lợi Tử ! Tướng KHÔNG của các pháp ấy chẳng sinh, chẳng diệt, chẳng nhơ, chẳng sạch, chẳng thêm, chẳng bớt.

Cho nên trong cái KHÔNG đó, nó không có SẮC, THỌ, TƯƠNG, HÀNH, THỨC, không có MẮT, TAI, MŨI, LƯỠI, THÂN, Ý không có SẮC, THINH, HƯƠNG, VỊ XÚC PHÁP, không có NHÃN GIỚI cho đến không có Ý THỨC GIỚI.

Không có VÔ MINH mà cũng không có hết VÔ MINH

KHông có GIÀ, CHẾT mà cũng không có hết GIÀ, CHẾT

Không có KHỔ, TẬP, DIỆT, ĐẠO

Không có TRÍ cũng không có ĐẮC, vì không có SỞ ĐẮC

Khi Bồ Tát vào Trí Huệ này thì Tâm không còn chướng ngại. Vì không còn chướng ngại nên không còn sợ hãi, xa lìa được cái điên đảo mộng tưởng đạt cứu cánh Niết Bàn.

Các Vị Phật ba đời nương theo Trí Huệ Bát Nhã này mà đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Cho nên phải biết rằng BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA này là Đại Thần Chú, Đại Minh Chú, là Chú vô thượng, là Chú cao cấp nhất, luôn trừ khổ não, chân thật không hư dối.

Cho nên, khi nói đến Bát Nhã Ba La Mật Đa là phải nói đến câu Chú : Qua rồi, Qua rồi, qua bên kia rồi, tất cả qua bên kia rồi, Giác Ngộ rồi đó”.

Nội dung Bát Nhã Tâm Kinh có ý nghĩa như sau :

Đạo Phật cho rằng cuộc đời là Khổ, và tu Phật là để tìm con đường Thoát Khổ, thì Bát Nhã Tâm Kinh cho rằng : “Chỉ cần hành thâm vào Bát Nhã Tâm Kinh là “soi thấy Ngũ Uẩn là không” thì độ hết tất cả Khổ Ách”.

Kinh viết : SẮC không khác với KHÔNG. SẮC tức là KHÔNG. Cũng theo cách này thì THỌ, TƯỞNG, HÀNH, THỨC cũng là KHÔNG.

Các Pháp đã là KHÔNG thì làm gì có Sinh, Diệt, nhơ, sạch, thêm bớt ? Đã là KHÔNG rồi thì làm gì có SẮC, THỌ, TƯỞNG, HÀNH, THỨC, Nhãn Giới, thậm chí Ý thức Giới ?

Không có Vô Minh nên cũng không hết Vô Minh. Không có Già, Chết cũng không có hết Già, Chết. Không có Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Không có Trí cũng không có Đắc, vì Vô Sở Đắc.

Nương vào Trí Huệ như thế thì không còn chướng ngại, nên không còn sợ hãi, xa lìa được cái điên đảo mộng tưởng là đạt cứu cánh Niết Bàn.

Kinh cho rằng Ba Đời Chư Phật đều nương Trí Huệ Bát Nhã này mà đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đây là Chú cao nhất, chân thật nhất để Trừ Khổ, chân thật, không hư dối.

Nói đến Bát Nhã Ba La Mật Đa là phải nói đến “Qua rồi, qua bờ bên kia rồi. Tất cả qua bên kia rồi. Giác Ngộ rồi”.

Phân tích Bát Nhã Tâm Kinh, ta thấy:

1/- Trước hết, Kinh viết : Bồ Tát chỉ cần hành sâu vào Bát Nhã là quán chiếu, soi thấy NGŨ UẨN GIAI KHÔNG thì sẽ hết khổ ách.

2/- Nhưng có phải chỉ cần Thấy NGŨ UẨN là KHÔNG thì hết khổ ách ?

Chúng ta thấy như sau : Ngũ uẩn tức là SẮC, THỌ, TƯỞNG, HÀNH, THỨC, tức là 5 món do NGŨ CĂN mang vào. SẮC tức là những Pháp CÓ TƯỚNG hay có KHỞI, DIỆT, mà con người vẫn thấy, nghe, nhìn, cảm nhận được. Từ đó chúng ta thọ nhận rồi ý thức tưởng tượng, vẽ vời đủ thứ rồi đưa ra hành động.

Theo Đạo Phật, con người luôn phải Khổ vì phải đối phó với Các Pháp đến với Cái THÂN. Các Pháp thì có Thuận Pháp, làm cho chúng ta hài lòng, Nghịch pháp làm cho ta phải đau khổ. Không CÓ thì đã khổ rồi, mà CÓ rồi mất lại càng Khổ. Tất cả đều tác động vào Cái Thân. Vì thế, Đạo Phật cho rằng Hữu Thân hữu Khổ. Do đó Đạo Phật dạy muốn được Thoát Khổ thì phải Quán Sát, Tư Duy THÂN – TÂM – PHÁP, để hiểu rõ về tất cả. Tìm xem lý do nào con người phải Khổ ? Cách thức để Thoát Khổ ? rồi đưa vào thực hành để có kết quả Thoát Khổ.

Quán sát Các Pháp, để thấy hiện tại nó đang CÓ đó, nhưng rồi thời gian dài hay ngắn nó cũng phải bị hư hoại theo quy luật, là về KHÔNG. Với Các Pháp thì Thành, Trụ, Hoại, Không. Với cái Thân, thì Sinh, Lão, Bệnh, Tử. Do các Pháp KHÔNG THẬT, KHÔNG BỀN, thấy đó, rồi mất đó, nên gọi chung là VÔ THƯỜNG. Mục đích là để chúng ta đừng vì đeo bám nó, để rồi Pháp nào thấy yêu thích thì muốn có nhiều thêm. Không đủ khả năng thì dùng thủ đoạn, lừa đảo, cướp giật rồi tạo Ác Nghiệp. Pháp nào không thích hay ghét, thì nổi Sân, Si thì muốn nó biến khỏi tầm mắt bằng mọi cách tùy theo quyền lực, sức mạnh, tạo thêm hỗn loạn cho xã hội.

Thế rồi, Hàng Thinh Văn khi quán sát thấy Các Pháp, thấy rằng cuối cùng sẽ trở về KHÔNG, NGŨ UẨN cũng là KHÔNG, thì Chấp lấy cái Thấy đó, cho rằng khi thấy tất cả đều là KHÔNG thì không còn Khổ nữa.

Đó là lối thấy mà nhà Phật gọi là Đoạn kiến, và không thực tế, không giống như cách giải thích của Đạo Phật chân chính.

Thật vậy. Chúng ta đang hiện diện. Các Pháp đều đang hiện diện, tức đang CÓ, mà cho rằng KHÔNG. Cho hiểu như vậy là Trí Huệ, và kết luận rằng ” Ba đời Chư Phật đều nương đây mà đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác” . Người hiểu lý Bát Nhã là đã “Qua rồi, qua bờ bên kia. Tất cả qua bên kia rồi, Giác Ngộ rồi,” thì đó là Vọng Ngữ, rất có hại cho người tin theo đó.

Chúng ta nên biết, con đường tu Phật đòi hỏi phải quán sát, tư duy. Phải hiểu Tứ Diệu Đế, vì trong đó Phật giải thích nguyên nhân của Khổ, cách thức để Trừ Khổ. Phải hiểu Thập Nhị Nhân Duyên, để thấy có tất cả 12 cái Duyên chuyền níu với nhau làm ra Sinh Tử Luân Hồi, Ưu Bi, Khổ não. Phải hiểu lý Nhân Quả để hiểu rằng gây Nhân nào thì gặt Quả đó. Không thể xin Phật, Thần đổi xấu lấy tốt cho. Và phải hiểu rằng tất cả nguyên nhân của Sinh Tử, khổ đau, xoay vần trong Lục Đạo đều do VÔ MINH.

VÔ MINH tức Mê Lầm, không sáng suốt, là mắc xích chính trong Thập Nhị Nhân Duyên, được điều khiển bởi cái VỌNG TÂM, tức CÁI TÂM MÊ LẦM. Do Vô Minh mà sinh ra những hành động, thêm những duyên khác chuyền níu nhau để đi đến kết quả là Sinh, Tử, Ưu Bi khổ não. Do đó, muốn Thoát Khổ, Thoát Sinh Tử, thoát Ưu Bi, Khổ Não phải có TRÍ HUỆ để phá VÔ MINH. Muốn có Trí Huệ thì phải dùng thời gian tĩnh lặng để Quán Sát, Tư Duy gọi là THIỀN QUÁN.

Người tu sau khi biết được tất cả Sinh Tử, khổ đau là do cái TÂM VÔ MINH thì phải đi tìm cho được Cái Tâm rồi CHUYỂN HÓA nó, gọi là TU TÂM, hay còn gọi là ĐỘ SINH. Có Độ hết Chúng Sinh, tức là những tư tưởng còn xấu xa, động loạn, cho nó được hoàn toàn thanh tịnh, thì người tu mới được Giải Thoát hay Thành Phật. Đâu phải lùa hết tất cả về KHÔNG, rồi cho là không có Vô Minh, không có Già, Chết, không cả Khổ, Tập Diệt Đạo, thậm chí Không có Niết Bàn, trong khi mục đích người tu Phật để đạt được Niết Bàn, hay là hạnh phúc, an vui, không còn phiền não ngay trong kiếp sống gọi là Hữu Dư Y Niết Bàn ! Người tu không chỉ ĐỘ SINH để hoàn thành Phật Quốc, phải Hành để có 32 Tướng Tốt của Phật, rồi còn có nhiệm vụ phải đền Tứ Ân và “Mồi ngọn Vô tận Đăng”. Đâu phải chỉ cần biết mỗi chữ KHÔNG là xong, không cần tu, không cần hành gì nữa ? Đó là lối hiểu của nhà Thiền mà ta thấy viết trong Vô Môn Quan. Thấy được cái KHÔNG thì cho rằng mình Thấy Tánh, thành Phật, mà còn cao hơn Phật, trong khi cái TÁNH và cái KHÔNG không dính dáng gì tới nhau !

Vì sao không thể nói các Pháp là KHÔNG ? Vì thực tế là tất cả chúng ta đang SỐNG, tức đang tồn tại trong cảnh CÓ. Rõ ràng, ngoài con người, chúng ta còn CÓ cả một thế giới chung quanh. Trong đó CÓ đủ thứ : Nào đồi núi, sông biển, suối nguồn, nhà cửa, đền đài, dinh thự, cây cỏ hoa trái lớn, nhỏ với đủ màu sắc. Chim, thú đủ loại. Con người thì trí, ngu, sang, hèn, giàu, nghèo thọ, yểu, sướng, khổ. Tính cách con người thì nhân từ, phúc hậu, thanh cao hay đố kỵ, nhỏ mọn, ích kỷ, giận hờn, hơn, thua, ganh, ghét, đấu tranh…. Một ngày còn sống là mọi người vẫn phải xử dụng Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Nhãn Giới, Ý Thức Giới. Sao nói không ? Trên thế giới, từng phút, giây, biết bao nhiêu con người Già, Bệnh, Chết, sao cho rằng không có Già, Chết ?

Mọi người đang có CÁI THÂN với Lục Căn, phải đương đầu với cuộc sống hàng ngày. Ngày nào cũng phải ăn để sống. Mở mắt ra là phải chi đủ thứ tiền.. mà cho là KHÔNG là thế nào ? Một thí dụ nhỏ thôi : Khi nhức răng hay đau đầu thì phải uống thuốc hay đi chữa, đâu thể nói Các pháp là Không rồi không có bệnh ? Nói các Pháp là KHÔNG mà thử nhịn ăn một ngày xem bao tử có kêu réo không ? Không có đủ tiền để chi tiền nhà, tiền điện, nước…là những nhu cầu thiết yếu, thì liệu có sống yên không ? Cho rằng Các Pháp là KHÔNG nhưng nếu không có mái nhà để che thân, cơm áo hàng ngày, liệu có tồn tại được không ? Chưa kể là ra xã hội bị chèn ép, lấn áp bởi những người quyền cao, chức trọng hay hàng xóm luôn kiếm chuyện với mình, liệu có thấy KHÔNG được chăng ?

Chính vì vậy, trong Góp Nhặt Cát Đá có câu chuyện để thức tỉnh những người cho rằng Các Pháp là KHÔNG :

Yamaoka Tesshu lúc còn nhỏ đi học Thiền, viếng hết thầy này đến thầy khác. Yamaoka đến viếng Dokuon ở Shokoku.

Muốn tỏ sở đắc của mình. Yamaoka nói :

“Tâm, Phật, loài hữu tình rốt ráo chẳng có. Bản tánh chân thật của mọi hiện tượng là Cái KHÔNG. Không có Cái CÓ. Không có huyền ảo, không có Thánh, không có Phàm, Không có cho và không có gì để thọ nhận”

Dokuon ngồi im lặng hút thuốc, không nói gì. Thình lình đâp Yamaoka một điếu tre, làm chàng thanh niên này phát khùng, hỏi : Sao Thầy đánh tôi ?

Dokuon hỏi : Nếu không có gì Có, thì cái giận của anh từ đâu tới ?

Đạo Phật cho rằng tuy cuối cùng các Pháp sẽ trở về KHÔNG. Nhưng hiện tại ĐANG CÓ, vì thế gọi là TẠM CÓ. Kinh ĐẠI BÁT NIẾT BÀN cho rằng “Các Pháp KHÔNG PHẢI CÓ, KHÔNG PHẢI KHÔNG, mà cũng CÓ, CŨNG KHÔNG”. Bởi nói CÓ sao không tồn tại mãi ? Nói KHÔNG, sao đang CÓ ? Cho nên, tu Phật không phải là để chối bỏ hay tránh né Các Pháp, mà Quán sát, tư duy, tìm hiểu rõ bản chất của Các Pháp để không vì nó tranh giành bất chấp, rồi Tham, Sân, Si, thương, ghét, tạo nghiệp mà phải Trả Nghiệp. Bởi tuy cái Thân Tứ Đại giả tạm của mỗi chúng ta, có thời hạn tối đa chừng một trăm năm, sau đó là phải hư hoại. Nhưng Bổn Thể Tâm của mỗi con người là trường tồn. Không bị chết đi theo Cái Thân, mà sẽ theo Nhân Quả đã làm để nhận lấy một cái Thân khác rồi tái sinh để Trả những Nghiệp đã gieo, gọi là Luân Hồi.

Phật dạy : Có được cái Thân người là rất Khó. Vì thế, đã sinh ra ở cõi đời, đã được làm người thì trong kiếp sống hiện tại không nên gieo Nhân Ác để kiếp sau không phải rơi vào Ba Đường Dưới, vì đã rơi vào đó rồi thì cơ hội trở lại làm người rất khó. Đó là những gì mà Chư Vị Giác Ngộ vì thương con người chúng ta, dùng cách nọ cách kia, hoặc tả Phật Quốc, Niết Bàn, Chư Phật, Chư Bồ Tát. Hoặc nói Địa Ngục, tả những cảnh chịu đọa, chịu khổ, là để con người hoặc ham về Niết Bàn, Phật Quốc hoặc sợ đọa Địa Ngục mà Cải Ác, Hành Thiện.

Đạo Phật thấy rằng cuộc sống con người ngắn ngủi, không đầy trăm năm mà phải chịu bao nhiêu nỗi khổ vùi dập. Vì thế, Con Đường tu Phật là để hóa giải cảnh Khổ của kiếp sống. Người có thấy cuộc đời là Khổ nên Phát tâm đi tu để Thoát Khổ thì đó mới là cái Phát Tâm chân chính. Khi vào tu hành thì mỗi người sẽ được hướng dẫn cho Giữ Giới, Thiền Định, Quán Sát, Tư Duy để hiểu được lý do có cuộc sống. Có Khổ, Vui, sang, hèn, thọ, yểu. Có Lục Đạo chúng sinh, phải làm Lục Độ để cứu độ. Biết rằng tất cả đều do Cái TÂM MÊ tạo ra, rồi học cách thức tìm Cái Tâm và chuyển hóa nó để được Thoát Khổ.

Tất cả họa, phước, khổ, vui, thành Ma hay thành Phật, sinh Thiên hay đọa Địa Ngục đều do CÁI TÂM MÊ. Tu hành chính là để biến cái TÂM MÊ hay VỌNG TÂM thành CHÂN TÂM. Biến Phiền não thành an vui. Biến trần gian đau khổ thành Niết Bàn thanh tịnh. Vì thế, giáo pháp nào đề cập đến việc TÌM TÂM, TU TÂM, CHUYỂN HÓA CÁI TÂM. Người tu được học để Biết, để Thấy : Có trần gian đau khổ để cầu Giải Thoát. Có Niết Bàn thanh tịnh để tìm về. Có Quả Phật để đạt tới. Có Chúng Sinh đau khổ để cứu độ. Có Pháp Thiện nên hành, Pháp Ác cần tránh, thì chúng ta có thể khẳng định đúng là Chánh Pháp của Đức Phật Thích Ca. Còn nếu tu hành để tìm Thần Thông biết trước biết sau, hay tôn thờ Chư Phật để cầu xin được Cứu độ. Hoặc cho Các Pháp là KHÔNG, không có Quả vị Phật để thành, không có Chứng đắc, là tà Pháp, vì không đúng với Chánh pháp của Phật.

Vì thấy cuộc sống con người ngắn ngủi, không đầy một trăm năm mà phải gánh chịu quá nhiều nỗi Khổ, nên Đức Thích Ca mới mở ra Đạo Phật để hướng dẫn con người cách thức để tất cả mọi người đều được Thoát Khổ, được hạnh phúc, an vui trong kiếp sống. Nguyên do chính của mọi nỗi Khổ là do CÁI TÂM. Vì thế, Tổ Đạt Ma dạy : “Ngàn kinh muôn luận cốt mở sáng cái Tâm”, hay “Tức Tâm tức Phật”, “Muốn tìm Phật thà tìm Tâm”. Người muốn Thoát Khổ thì phải học, phải Quán Sát, tư duy. Phải Tu sửa, phải thực hành, phải Chứng Đắc. Nhưng cuối đường tu là để được Giải Thoát, không phải là để Đắc Quả nọ Quả kia, cho nên gọi là Tu vô Tu, Chứng Vô Chứng, hay “Đắc cái Vô Sở Đắc”.

Trong khi đó, Bát Nhã Tâm Kinh không hề đề cập đến Cái Tâm, Không nói đến Giới, Hạnh, Bát Chánh Đạo, Nhân Quả là cốt tủy của Đạo Phật, chỉ nói đúng một chữ KHÔNG.

Nếu tất cả đều KHÔNG. Không Tâm, không Phật, không Chúng Sinh, không Địa Ngục, Niết Bàn, không cả nhân Quả thì người một đời hành Ác và người cả kiếp sống Thiện đều như nhau, thì cả thế giới mặc tình đấu tranh, giết chóc, mạnh được, yếu thua như những loài thú hoang dã ? Không cả Sanh Tử thì con người bất sinh bất tử ? Điều đó hoàn toàn không phù hợp với thực tế mà người mới soi nửa vời đã thấy mình Chứng đắc rồi phổ biến, người sau không biết mà tin theo đó thì rất là tai hại. Bằng chứng là trong Vô Môn Quan có viết về một số được coi là Chứng Đắc của Nhà Thiền. Họ ngông nghênh, xem Phật chẳng ra gì. Dám bảo Phật là “Que cứt khô”, “Ba cân mè”. Đó là những cái lối truyền pháp sai lầm người sau nên biết để tránh không rơi vào Tăng Thượng Mạn vậy! .

......(Còn tiếp)




VVM.20.6.2025.