Việt Văn Mới
Việt Văn Mới
        


MỘT SỐ ĐIỂM QUAN TRỌNG TRONG
ĐẠI THỪA KIM CANG KINH LUẬN

  

     Lời nói đầu

     Đây không phải là một quyển Kinh ĐẠI THỪA, chỉ là quyển LUẬN về KINH KIM CANG của ĐẠI THỪA có tựa đề là ĐẠI THỪA KIM CANG KINH LUẬN.
     Trong đây gồm 38 câu hỏi và trả lời rất cần thiết cho người muốn hiểu Đạo. Không thấy đề tên tác giả. Chỉ thấy tên dịch giả là Đại Đức THÍCH VIÊN GIÁC, dịch tại Học Viện Nha Trang năm 1965. Đã được Ấn tống một lần, sau đó Sư Bà Thích Nữ DIỆU KHÔNG in lại. Quyển này không thấy phổ biến rộng rãi, vì không phải là Chính Kinh. Nhưng nhận thấy có nhiều lợi ích, mở mang sự hiểu biết cho người muốn tu học nên tôi xin chia xẻ lại cho những ai muốn tìm hiểu, trong đó có thêm phần lược giải của tôi để làm sáng tỏ thêm.

     Kính.


     Tâm Nguyện.

       PHẦN MỞ ĐẦU
PHẬT NÓI KINH KIM CANG ĐẠI THỪA.

N gài Văn Thù Sư Lợi đại diện cho Bốn Chúng hỏi Phật :

“Xin Đức Thế Tôn mở lòng đại từ, lập phương tiện chỉ ngay cho Chúng Sanh sơ cơ thấy Phật Tánh để tu hành mau thành Phật, và cũng khiến Chúng Sanh đời mạt pháp, mới đến cửa Phật không bị tà giáo mê hoặc, không dụng nhiều công, mau đặng đạo quả.

Phật dạy :

Có một phép Đà La Ni tên là KIM CANG TÂM. Chúng sanh một phen nghe pháp ấy liền chứng đạo quả.

Này Thiện Nam Tử ! Thế nào gọi là KIM CANG TÂM ? Tâm này ai cũng sẵn có , không người nào không. Ấy là cái Tâm bình đẳng, chúng sanh tự hiểu biết lấy. Vì tất cả lành dữ đều do Tâm mình tạo ta. Tâm mình Thiện thì Thân mình an vui. Tâm mình làm Ác thì Thân mình khốn khổ. Tâm là chủ của thân. Thân là Dụng của Tâm –

Vì sao vậy ?

Vì Phật cũng do Tâm thành. Đạo do Tâm học. Đức do Tâm chứa. Công do Tâm tu. Phước do Tâm tạo, Họa do Tâm làm. Tâm hay tạo ra Thiên đường. Tâm hay làm ra Địa Ngục. Tâm làm ra Phật. Tâm hay làm ra Chúng Sanh. Cho nên Tâm chính thì thành Phật. Tâm tà thì thành Ma. Tâm từ thì thành Trời. Tâm ác thì là quỷ. Tâm là hột giống của tất cả tội phước. Nếu người nào ngộ được Tự Tâm, giữ được Định Tánh, tự chủ Tâm không làm Ác, thường hay tu Thiện; Tu hành như Phật, hạnh nguyện như Phật. Phật nói người ấy không bao lâu sẽ thành Phật.

Nếu có Thiện Nam Tử, Thiện nữ nhân nào muốn cầu Phật Đạo mà không rõ được Tự Tâm, người ấy chưa thể gọi là Thành Phật. Nếu người nào hiểu được Tự Tâm, biết được Tự Tánh, y theo lời Phật dạy mà tu hành “Người ấy quyết định sẽ Thành Phật”. Công đức ấy còn lớn hơn tụng hai mươi vạn biến Kinh Kim Cang. Công đức ấy không gì sánh kịp.

Vì sao thế ?

Vì hết thảy chư Phật và Đạo Vô Thượng của Ngài từ trong Tâm mình xuất phát ra. Tâm ấy vô cùng vô tận, không thể phá hoại, không thể tạp nhiễm, cho nên gọi là TÂM KIM CANG. Ngộ được Tâm này gọi là Ngộ được Tâm Phật. Vậy nên biết Phật và Chúng sanh Tâm Tánh như nhau, chỉ vì Tu và không Tu. Tin và không Tin, mới có người làm Phật, có kẻ làm Chúng sanh vậy”.

Lược giải :

Nhiều thời qua, do không được hướng dẫn cụ thể về cách thức tu hành, nên nhiều người hiểu lầm, khi tu hành thì chỉ chú trọng phần Tướng, trở thành Tu Tuớng mà không hay. Tức là họ Xuất Gia rồi chỉ lo chỉnh sửa đầu cho tròn, áo vuông, đi đứng phải giữ Tứ oai nghi. Cả ngày tụng kinh, Niệm Phật, Ngồi Thiền, học Pháp, lấy đó làm công phu tu tập, mà quên rằng “Tu Phật là Tu Tâm”.

Muốn Tu Tâm thì phải biết Tâm là gì ? Ở đâu ? Tu như thế nào ? Mở đầu quyển Luận này ta thấy Ngài Văn Thù Sư Lợi đặt ngay câu hỏi quan trọng nhất, đi vào cốt lõi của việc tu hành : “Xin Phật chỉ cho chúng sanh sơ cơ Thấy được Phật Tánh để mau thành Phật, không bị tà ma ngoại đạo mê hoặc và cũng không phải dụng công nhiều mà chóng thành tựu Đạo Quả”.

Qua câu Phật trả lời cho Văn Thù Sư Lợi, ta được giải thích tầm quan trọng của Cái Tâm. Tâm tức là Tánh, là Cái mà ai ai cũng có, nhưng do tu và không tu, tin và không tin mà có người làm Phật, có kẻ làm Chúng Sanh. Tất cả đều do ở Cái Tâm.

Mọi người chỉ thấy mọi hoạt động đều do Cái Thân. Thí dụ tay đưa, chân bước. Cầm nắm mọi vật. Làm tốt hay làm xấu. Giúp người hay hại người, cũng đều do Cái Thân hành động. Nhưng điều mà mọi người không biết là cái Làm Chủ, cái đã sai khiến cái Thân hành động là Cái Tâm, không phải là cái Thân tự làm, tự quyết định mọi việc. Vì thế, người muốn tu hành mà không biết đến Cái Tâm để tu sửa ở đó, gọi là TU TÂM thì muôn đời không thể thành tựu được, dù có tu hành kham khổ, bắt cái Thân chịu đói, chịu khát hay hành hạ nó, bắt nó nằm bờ, ngủ bụi hay đày đọa nó thế nào đi nữa.

Đọc lịch sử tu hành của Đức Thích Ca, chúng ta thấy : Sau Sáu năm học nhiều môn, hành đủ thứ, kể cả lõa thể, Khổ Hạnh nhưng không thành công. Cho đến lúc Ngài ngồi Thiền Định dưới Cội Bồ Bề thì rạng sáng đêm thứ 49 Ngài mới Thấy được cái mà gọi là “ Thủ phạm đã làm ra Ngôi Nhà Sinh Tử”. Đó chính là Cái Tâm. Lúc còn đang Mê thì gọi là Vọng Tâm.

Tâm là phần Vô Tướng, ở trong Cái Thân. Nó là cái suy nghĩ, phân biệt của mỗi chúng ta. Nhiều tôn giáo gọi nó bằng nhiều cái tên khác nhau. Đạo Phật gọi là Thần Thức, Bổn Thể Tâm, hay Tánh. Tiên Đạo gọi là Tiểu Linh Quang, Đạo Thiên Chúa gọi là Linh Hồn. Dù nhiều Tôn Giáo khác nhau, nhưng tất cả đều nhìn nhận ngoài thể xác, mỗi người đều có phần anh linh bên trong.

Theo giải thích của Đạo Phật thì ở địa vị phàm thì nó là Phàm Tâm. Tu hành thì gọi là Chân Tâm. Do nó điều động mà con người làm Ác hay Thiện, tu hành để được Giải Thoát hay vĩnh viễn chịu đọa. Lúc còn ở trong Cái Thân, chính nó đã điều khiển cho mọi hoạt động của cái Thân. Vì thế, khi cái Thân hết Nghiệp, hoàn trả lại cho Tứ Đại thì nó phải nhận lấy một cái Thân mới tương ưng với Nghiệp mà nó đã gây tạo, để rồi hoặc vào Ba Đường Dưới, là Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh. Hoặc được sinh ra làm con người, hay sinh Thiên.

Nơi đây Luận giải thích rất rõ : Tất cả Thiện, Ác, lành, dữ đều phát khởi do Cái Tâm, sau đó cái Thân hành động mà sinh ra họa, phước, thành Phật hay thành Ma. Do đó, người muốn Thành Phật thì phải “tu hành như Phật, hạnh nguyện như Phật thì không bao lâu sẽ thành Phật”.

2.- VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT HỎI PHẬT :

Sao gọi là Kinh Kim Cang ?

Phật đáp : Kim Cang dụ cho Tánh của mình. Kinh dụ cho Tâm của mình.

Nếu người nào rõ được Tự Tâm của mình, thấy được Tự Tánh của mình, người ấy trong Tâm họ có Kim Cang. Đầu của Sáu Căn người ấy thường phóng ra hào quang sáng suốt, chiếu khắp trời đất, đầy đủ công đức như số cát Sông Hằng, phát hiện ra Tứ Quả, Tứ Hướng, Thập Thánh, Tam Hiền, có đến 32 Tướng Tốt, 80 vẻ đẹp của Như Lai. Hết thảy công đức ấy đều do Tâm địa của mình tự tu lấy, chớ không phải ngoài mình ra mà tìm kiếm được.

Vì sao vậy ?

Vì nếu người nào đã Minh Tâm Kiến Tánh rồi thì người ấy thường tự nghe trong Tâm của mình luôn luôn có Phật thuyết pháp, luôn luôn độ Chúng Sanh, luôn luôn hiện thần thông. Luôn luôn làm việc Phật. Người được lý ấy gọi là Trì Kinh KIM CANG, gọi là người được Thân Kim Cang bất hoại.

Lược Giải : Theo giải thích của phần này, thì người “Trì” Kinh KIM CANG không phải là người tụng cho nhiều biến Kinh KIM CANG, mà là người rõ được Tự Tâm, Thấy được Tự Tánh của mình thì trong Tâm của người đó luôn có Phật thuyết pháp, luôn cứu độ Chúng Sanh, luôn làm việc Phật. Người hiểu đuợc lý đó chính là đang “trì Kinh KIM CANG” vậy.

3.- VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT HỎI PHẬT :

Trong Kinh Kim Cang thường khen ngợi người thọ trì Bốn Câu Kệ v.v.. và thường giảng nói cho người nghe, thì phúc đức ấy còn hơn đem bảy báu chất đầy cả hư không trong mười phuơng Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn phía trên duới ra mà bố thí. Còn hơn cả phước đức đem thân mạng nhiều như số cát Sông Hằng ra mà bố thí mỗi ngày ba thời : Mai, trưa, chiều, tối cho đến bố thí suốt cả trăm ngàn kiếp. Vậy Bốn câu Kệ ấy thế nào mà phước đức nhiều như vậy ? Phật đáp : Hết thảy chúng sanh đều có PHẬT TÁNH. Tánh ấy xưa nay chẳng sanh, xưa nay chẳng diệt, chỉ vì Mê Ngộ khác nhau nên có thăng trầm. Vì sao vậy ? Chúng sanh mê lầm mãi không Giác Ngộ nên vĩnh kiếp đọa lạc trầm luân, Chư Phật thường Giác Ngộ, mãi chẳng mê, nên vĩnh viễn thành Đạo Quả.

Nểu có Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhơn nào cầu Phật Đạo, thì con đường tiến tới Đạo ấy chia làm Bốn bậc, gọi là Bốn Câu Kệ :

Một là KHÔNG THÂN

Hai là KHÔNG TÂM

Ba là KHÔNG TÁNH

Bốn là KHÔNG PHÁP

Thế nào gọi là KHÔNG THÂN ?

Vì Thân này cha mẹ sinh ra, cũng đầy đủ khí huyết của cha mẹ. Chín khiếu thường bài tiết ra những vật bất tịnh. Thân do Bốn Đại giả hợp mà thành rồi cũng phải tan rả. Người Nam Nữ nào có trí hiểu biết Thân này là giả dối, dầu chưa chết cũng như đã chết, nên phải mượn Thân giả dối này mà học Phật tu hành, gọi là tỏ ngộ được THÂN KHÔNG. Đó là Câu Kệ Thứ Nhất vậy.

THẾ nào gọi là KHÔNG TÂM ?

Lại quán sát Tâm của mình, chẳng phải Sanh, chẳng phải Diệt, chí thánh, chí linh; gặp cảnh như là CÓ, cảnh qua rồi như là KHÔNG. Nay ngộ đuợc Chơn Tâm, thường Giác không Mê, không còn đọa lạc, trôi lăn theo Vọng Tưởng, chỉ nương lấy Chơn Tánh để tự làm chủ lấy mình gọi là tỏ ngộ TÂM KHÔNG. Đó là Câu Kệ Thứ Hai vậy.

THẾ NÀO GỌI LÀ TÁNH KHÔNG ?

Lại biết quan sát TÁNH của mình thường yên lặng, không lay động, mà có cảm ứng thần thông biến hóa vô cùng, oai linh khó nghĩ, sáng suốt làu làu, tự Giác, tự Ngộ, linh thiêng vô tận, vắng lặng triệt để, Vô Vi mà thường Vi; gọi là TỎ NGỘ TÁNH KHÔNG – Đó là Câu Kệ Thứ ba vậy.

THẾ NÀO GỌI LÀ PHÁP KHÔNG ?

Lại biết quán sát Kinh Điển của Phật nói ra đều là những pháp môn phương tiện dẫn dắt chúng sanh vào đạo. Như nước dùng để rửa bụi. Như thuốc dùng để chữa bênh. Bệnh khỏi thì thuốc cũng trừ, gọi là tỏ ngộ PHÁP KHÔNG. Câu kệ Thứ Tư vậy.

Ý nghĩa Bốn câu Kệ này là cửa ngõ, là con đường vào Đạo để siêu phàm nhập Thánh. Mười Phương Chư Phật Ba Đời đều do con đường này mà thành Phật. Mười Phương Bồ Tát cũng do đó mà tiến buớc tu hành.

Vì sao vậy ?

Nếu Ngộ đặng ý nghĩa câu Kệ Thứ Nhất, y theo đó mà tu hành, thì chứng đặng Quả Dự Lưu Tu Đà Hoàn.

Nếu Ngộ đặng Câu Kệ Thứ Hai, y theo đó mà tu hành, thì đặng chứng Quả Nhất Lai Tư Đà Hàm.

Nếu ngộ đặng Câu Kệ Thứ Ba, y theo đó mà tu hành, thì chứng đặng Quả Bất Lai A Na Hàm.

Ngộ đặng ý nghĩa câu Kệ Thứ Tư, y theo đó mà tu hành, thì chứng đặng Quả Vô Sanh A La Hán.

Bốn Câu Kệ này mở rộng cửa Đạo Phật. Nếu ai hay Thọ, trì, đọc, tụng, giải nói cho người khác nghe, khiến họ tỏ ngộ được tri kiến của Phật, thì quyết định sẽ thành Phật, không còn nghi ngại gì. Vậy nên biết phước đức này còn lớn hơn ngàn vạn lần phước đức đem bảy báu và thân mạng mà Bố Thí như đã nói trước kia.

Phật bảo Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát rằng : Phật trước, Phật sau cũng đồng một thể PHẬT TÁNH như nhau, chỉ vì mỗi người tự mình Minh Tâm Kiến Tánh, tự mình tu tập mà thành Phật. Vậy thời PHẬT TÁNH ai ai cũng sẵn có, chỉ tại ai đó tự mình không theo lời Phật dạy mà tu hành, nên không trọn thành Phật.

Vì sao ? Vì không công đức gì trong Phật Pháp nên không thành.

Nếu muốn Thành Phật, phải nương theo mười điều sau đây mà tu tập :

1/- Phải Trai Giới làm nền tảng để đi đến Quả Phật.

2/- Phẩm tầm Minh Sư chỉ điểm công phu.

3/- Phải biết rõ TÂM một cách sáng suốt.

4/- Phải làm phước nhiều để tô bồi nền đạo đức của mình.

5/- Phải kết duyên lành với mọi người cho căn lành của mình ngày càng thêm lớn.

6/- Phải hiểu Nhân Quả. Việc làm đừng có vọng động.

7/- Phải phá trừ tà ma, xa lìa ngoại đạo.

8/- Phải thông hiểu chân lý, chớ chấp hữu vi.

9/- Phải tinh tấn làm theo hạnh Phật.

10/- Phải tinh minh, sáng suốt, hiểu biết tất cả mọi pháp.

Nếu người nào đầy đủ mười món công đức này thì mau thành bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Lại nữa, nầy Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. Sau khi ta diệt độ rồi, trong thời Mạt Pháp, có nhiều chúng sanh căn tánh ám độn, thấp kém, tâm ý si mê, tính tình mờ ám, tuy có trai Giới nhưng không Trí Huệ, sanh tâm ngu muội, ngã mạn cống cao, tôn sùng tà kiến, không chịu hạ mình tham cầu minh sư để học hỏi, lựa chọn pháp môn chơn chánh, một bề chấp trước, nhận giả làm chơn. Hoặc có người chấp kinh sách văn tự, hoặc chấp tụng trì cho nhiều biến số, hoặc được một câu, một lời của Phật cũng cho là đã hoàn toàn; chưa đặng mà nói đã đặng, chưa chứng mà nói đã chứng; Căn lành tu ít, quả báo muốn nhiều. Những người ngu ấy không hiểu ý Phật, tự mình điên cuồng, tự mình dối mình; tuy có nhơn lành mà khó tránh quả dữ. Vì sao vậy ? Vì gieo giống Bồ Đề không chơn, nên kết quả Bồ Đề không chánh. Một phen mất thân người, muôn kiếp khó trở lại.

Lược giải :

Phần này phân biệt cho chúng ta thấy giữa PHƯỚC ĐỨC và CÔNG ĐỨC. Nhiều người chưa phân rõ hai nghĩa này. Dù có đem thân mạng nhiều như số cát Sông Hằng ra mà Bố Thí ngày mấy thời thì cũng không bằng người Thọ Trì Bốn Câu Kệ, tức là thực hành theo ý nghĩa của Bốn Câu Kệ, tuợng trưng cho những giai đoạn Hiểu, Hành trên con đường tu hành. Còn nếu mang những thứ mình có, là của cải, tiền bạc, vật chất, tặng cho người, dù là tặng ngay cả thân mạng, thì chỉ có Phước Đức, cho nên không thể so với Công Đức tu hành.

Về KHÔNG THÂN, chúng ta có thể hiểu như sau : Khi chưa tìm hiểu Đạo Phật, mỗi người chúng ta chỉ thấy MÌNH là Cái THÂN nên cho rằng những gì đến với cái Thân là đến với MÌNH. Tất cả các Pháp đều CÓ. Vào tu Phật, người tu học đuợc dạy quán sát Cái Thân, để thấy nó chỉ là 4 món ĐẤT, NƯỚC, GIÓ, LỬA kết hợp lại, có thời hạn xử dụng nhiều lắm là 100 năm. Khi hết Duyên, hết Nghiệp sẽ trả về cho Tứ Đại. Vì thế, suy cho cùng nó không phải là MÌNH. Nó chỉ là món mà mình TẠM CÓ, tạm xuất hiện ở đây để Trả những gì đã Vay, khi hết Duyên, hết Nghiệp sẽ hoàn về cho Tứ Đại. Như vậy thật ra THÂN này không phải là Ta, nên coi như ta Không có cái THÂN giả tạm này. Chỉ là cái mà chúng ta tạm ở trong nó để Trả Nghiệp mà thôi.

Về cái KHÔNG TÂM ta có thể hiểu như sau : Cái THÂN đã không phải là MÌNH, thì những gì nó tiếp nhận, xúc cảm, toan tính, suy nghĩ… dựa trên Cái Thân Đạo Phật gọi là CÁI TÂM cũng KHÔNG THẬT CÓ. Nó chỉ là cái VỌNG TÂM, tức là Cái Tâm MÊ LẦM, do tưởng CÁI THÂN LÀ MÌNH, nên thấy Các Pháp đển với Thân thì cho là đến với MÌNH mà thôi. Do vậy, chính ra là Mình KHÔNG CÓ TÂM. Vì vậy, người tu phải đi tìm cái CHÂN TÂM, CHÂN TÁNH hay BỔN THỂ TÂM, vì đó mới là cái TA THẬT.

Thế nào gọi là TÁNH KHÔNG ? Mỗi người ngoài cái THÂN HỮU TƯỚNG, còn có phần VÔ TƯỚNG. Khi hành giả quán sát, thấy Cái THÂN HỮU TƯỚNG lúc nào đó sẽ hư hoại, nên nghĩ rằng CÁI TÂM tức là những suy nghĩ, tính toán, cho phản ứng khi Cái Thân tiếp pháp mới là MÌNH. Phật dạy Cái TÂM đó dựa vào Cái THÂN mà suy nghĩ, ứng xử nên nó chỉ là CÁI VỌNG TÂM hay CÁI TÂM MÊ LẦM, KHÔNG PHẢI LÀ CÁI CHÂN TÂM hay BỔN THỂ TÂM của TA. Do vậy, những cái Thương, ghét, giận hờn ích kỷ, đố kỵ cũng không phải là Thật Tánh của ta, mà cái CHÂN TÁNH là cái linh hoạt, không thương, ghét, sáng suốt, như như, bất động… mới là THẬT TÁNH của ta.

Đạo Phật dạy mỗi người đều có cái CHÂN TÁNH. Cái TÁNH này mới sáng suốt, mới là chủ thật sự của cái Thân. Nhưng khi tu hành thì cái Chân Tánh bị che mờ, nên tu hành chính là gột rửa những chất nhơ đã bám vào, che mờ cái Chân Tánh, để cái CHÂN TÁNH được lộ ra, để thấy nó dù ở trong Cái Thân giả nhưng biệt lập, không bị sống chết theo nó.

Về KHÔNG PHÁP có thể tạm hiểu như sau : Các PHÁP thấy CÓ, nhưng cuối cùng rồi cũng về KHÔNG theo quy luật Thành Trụ Hoại Không. Vì vậy, Đạo Phật dạy người tu quán sát để đừng chấp lấy Pháp để rồi khổ vì nó. Thực tế nó chỉ là Tạm Có mà thôi. Tu hành là để hiểu rõ về nó để không vì nó mà khởi Tham, Sân, Si, Thương, Ghét..mà chấp nhận có duyên thì đến, hết duyên lại đi. CÓ, KHÔNG chỉ là hai đầu của PHÁP. Đã có Khởi thì phải có DIỆT, Có ĐẾN thì có ĐI, chúng ta đừng chấp vào đó để rồi khi Được thì vui mừng, lúc Mất thì khổ sở, mà chấp nhận thực tế, chấp nhận quy luật Sinh Trụ Dị Diệt, Thành Trụ Hoại KHÔNG. Biết tất cả chỉ là do Duyên mà đến, hết Duyên thì đi. Suy cho cùng thì PHÁP không thật Có, chỉ là TẠM CÓ mà thôi. Người thấy được CÁC PHÁP LÀ KHÔNG được cho là Chứng Quả A La Hán của Đạo Phật.

Người tu phải tu học PHẬT PHÁP, cũng là Pháp Giải Thoát. Tức là chấp nhận sống trong Cảnh CÓ mà Tâm như Hư Không, không bị ràng buộc, gọi là Con Đường Trung Đạo. Ở trong con đường này thì sẽ tùy Duyên mà ứng Pháp, nhưng không bị ràng buộc bởi Các Pháp.

PhẬt dạy người tu phải hiểu được ý nghĩa của Bốn Câu Kệ : KHÔNG THÂN, KHÔNG TÂM, KHÔNG TÁNH, KHÔNG PHÁP, y theo đó mà thực hành thì cho là Chứng được Tứ Quả Thánh. Người Chứng được Tứ Quả Thánh thì sớm hay muộn cũng sẽ thành tựu đạo quả.

MuỐn tu hành thành công thì có Mười Điều cần phải làm như phần trước đã liệt kê. Vì nếu không tu thì không thể thành. Nếu thiếu Trai Giới, thiếu Thầy hướng dẫn, không thấy được cái Tâm, không hành theo hạnh Phật thì cũng khó thể tự mình đi mà đến đích được.

Luận cũng chỉ ra trong thời Mạt Pháp, một số người cũng tu hành nhưng không có được kết quả, vì thiếu Trí Huệ lại sinh tâm ngã mạn, cống cao, không chịu hạ mình để tìm Chân Minh Sư hướng dẫn, nên nhận giả làm chơn.Gieo giống Bồ Đề không chơn nên kết quả không Chánh. Nếu không biết để tu sửa thì một mai mất thân người muôn kiếp khó trở lại.

4. VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT HỎI PHẬT :

Bốn loài chúng sanh tạo những nghiệp gì mà bẩm thọ thân hình mỗi loài một khác ?

Phật đáp : Hết thảy chúng sanh từ vô thỉ đến nay tạo nhiều việc điên đảo, niệm niệm không lành; quên hẳn Tự Tánh, luyến ái trần duyên, bởi Tham, Sân, Si tạo ra vô lượng vô biên tội lỗi, làm những điều Sát Sanh, Trộm Cướp, Dâm loạn, nên phải Luân Hồi trong Lục Đạo bẩm thọ thân hình khác nhau.

Nay nói sơ về nghiệp chướng căn bản điên đảo của Bốn loài.

1/- LOÀI NOÃN SANH : Loài đẻ bằng trứng. Người này đời trước vì kế sanh hoạt, tâm tham lam, hay bày mưu mô kế hoạch, lừa gạt xảo trá cho nên đọa vào loài Noãn sanh như chim cá v.v..

Người kế hoạch cao thì làm chim. Hễ thấy người thì bay lên cao. Người mưu chước sâu thì làm cá, hễ thấy người thì lặn xuống nước sâu.

2/- THAI SANH : Loài để bằng thai. Người này đời trước tham đấm Dâm Dục nên đọa vào loài thai sanh, như người và thú vật có vú, đẻ con, như trâu, bò v.v… Tham Dâm hợp lý, phải bổn phận, được sanh làm người đứng thẳng. Nếu tham dục ngang trái thì sanh làm thú bốn cẳng đi ngang.

3.- THẤP SANH :

Loài sanh chỗ ẩm ướt. Người này đời trước tham ăn thịt uống rượu, lấy việc đánh đập, gây lộn, ồn ào làm vui, nên đọa vào thấp sanh như trùng, dế, muỗi mòng, ở chỗ ẩm ướt dơ dáy.

4/- HÓA SANH :

Loài biến hóa. Người này đời truớc lòng lang dạ hay thay đổi, niệm niệm khác thường ; trước mặt nói phải, sau lưng nói quấy; cố làm, cố phạm, nên đọa vào loài hóa sanh như ve, bướm v.v..

Phật bảo Ngài Văn Thù Sư Lợi : Trong Bốn Loài, Sáu Đường, chỉ có con người là quý hơn hết. Phật từ trong loài người mà tu đắc đạo. Nghiệp báo cũng từ trong loài người mà tạo tác. Người hay tu phuớc quyết định sanh lên trời. Người hay làm ác quyết định đọa Địa ngục. Có đức được làm Thần. Có đạo đức được làm Thánh. Tội, phước đều phải có nguyên nhân, không do ai tạo ra và phán định cách vu vơ được. Đến khi lâm chung, tùy nghiệp lành hay dữ mà chịu quả báo xấu hay tốt.

Trong Sáu Đường (Địa Ngục, Ngạc Quỷ, Súc Sanh, Nhân, Thiên, A Tu La), loài người là dễ tu nhất. Các đường khác không thể sánh kịp. Một phen mất thân người, muôn kiếp khó trở lại.

Lược Giải : Phần này Phật giải thích do đâu mà sinh ra Sáu loài trong Lục Đạo. Tất cả đều do Nghiệp Quả đã làm ở kiếp trước. Do chấp lấy Cái Thân và làm đủ mọi chuyện xấu, tốt nhằm phục vụ cho nó, nên khi cái Quả trả về phải nhận lấy kiếp sống mới tương ưng với những gì mình đã làm. Hoặc tham lam bàn mưu tính kế để lừa dối người khác. Hoặc tham đắm dâm dục, hoặc tham ăn thịt, uống rượu, hoặc lòng dạ không ngay thẳng. Trong các đường thì chỉ có con người là cao quý, vì Phật cũng từ con người mà đắc đạo. Thành Tiên hay thành Thần cũng từ con người mà làm ra. Do vậy Đức Thích Ca mới mở ra Đạo Phật để hướng dẫn, giải thích cho con người để con người nếu không thể tu hành Giải Thoát được thì chỉ cần CẢI ÁC, HÀNH THIỆN, thì dù có tái sinh ở kiếp nào cũng được an vui, hạnh phúc.

5.- VĂN THÙ BỒ TÁT HỎI PHẬT :

Tri kiến thế nào gọi là Ngũ Nhãn ?

Phật đáp :

NHỤC NHÃN : Chỉ thấy được chỗ sáng, không thấy được chỗ tối. Chỉ thấy truớc mặt, không thấy sau lưng.

THIÊN NHÃN : Trước, sau, trong, ngoài, núi, gò, đá, vách, đều thấy thông suốt, không có gì ngăn ngại.

HUỆ NHÃN : Thấy được nghĩa ý cạn, sâu của văn tự. Thấy được Quả báo đời trước, đời sau, lành hay dữ, như xem chỉ trong lòng bàn tay vậy.

PHÁP NHÃN : Thấy được Pháp của Chư Phật ba đời, mười phương. So sánh các phương tiện, luận theo căn cơ mà truyền đạo kịp thời.

PHẬT NHÃN : Sáng suốt hoàn toàn, soi khắp mọi nơi, thấu suốt từ vô thỉ kiếp về trước đến vô thỉ kiếp về sau. Hiểu biết hết thảy Nhơn Quả như thấy trước mắt, không sót sợi lông, mảy tóc.

Năm thứ con mắt này đều do công đức tu hành phuớc thiện mà cảm triệu được. Chỉ có Phật mới hoàn toàn. Các vị Thánh Nhân khác không thể sánh kịp.

Tuy chia làm Năm thứ con Mắt như vậy, nhưng cùng chung một Tâm chiếu ra. Tu hành đến chỗ Minh Tâm Kiến Tánh thì ai cũng đầy đủ năm con Mắt đó.

Lược Giải : Phần này giải thích rõ về Cái Thấy của Ngũ Căn. Ngoài cái Thấy bằng con Mắt bình thường gọi là NHỤC NHÃN, chỉ Thấy những gì Có Tướng. Người có Ngồi Thiền sẽ có được Cái Thấy gọi là THIÊN NHÃN, tức là Thấy được phần Vô Tướng. Có thể Thấy trước những gì sắp diễn ra, hoặc Thấy những thứ mà Mắt thường không thấy được là Ma Quỷ, Thần, Tiên hay những cảnh giới Tiên Thần. Nhưng người tu Phật không nên chú ý đến Thiên Nhãn hay Ngồi Thiền nhằm mục đích biết trước mọi việc sắp diễn ra, vì điều đó không có ích lợi gì cho con đường tu hành. Người tu Phật cần tìm HUỆ NHÃN, tức là cái THẤY BẰNG TRÍ HUỆ, tức là sự Thấy, Biết về Nhân Quả, về con đường tu hành, về cách thức cần làm, cần Xả để đạt cứu cánh Giải Thoát.

Cuối cùng là PHẬT NHÃN, tức là cái THẤY MÀ KHÔNG DÍNH MẮC, gọi là THẤY MÀ NHƯ KHÔNG THẤY hay NHƯ THỊ. Tất cả những Cái Thấy đều do công phu Ngồi Thiền, Quán Sát, Tư Duy mà có được.

6.- VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT HỎI PHẬT

Thế nào gọi là Thanh Tịnh Pháp Thân ?

Phật đáp : Tự Tánh Thanh Tịnh là Bổn tánh sẵn có của Chúng Sanh, gọi đó là Pháp Thân. Nhưng chúng sanh chỉ thấy Nhục Thân, không thấy đặng Pháp Thân. Sau khi tu hành Thành Phật rồi mới thấy Pháp Thân của mình từ vô thỉ đến nay bản lai vốn thanh tịnh. Nó không sanh, không diệt, không thành, không hoại. Còn ở địa vị phàm phu thì gọi nó là Tâm Tánh. Ở địa vị Thánh Hiền thì gọi nó là Thánh Tánh. Ở địa vị Phật thì gọi nó là Thanh Tịnh Pháp Thân.

Nếu người không tu hành thì không bao giờ tỏ ngộ được “Bộ mặt thật của mình’, “Bản Lai Diện Mục”, tức là không tỏ ngộ được Thanh Tịnh Pháp Thân của mình.

Nếu người nào muốn tỏ ngộ Bản lai Diện Mục của mình mà không có thầy chứng minh thì chỉ nhận vọng làm chơn, lâu ngày sẽ thành tà ma ngoại đạo, thành yêu, thành quái, phỉnh gạt chúng sanh. Hiện còn ở trong đời thì bị pháp luật thế gian hành phạt; chết rồi thì bị đọa vào ba đường ác, một phen mất thân người, muôn kiếp khó trở lại.

Lược Giải : Ngoài Sắc Thân, tức là Cái Thân Tứ Đại, mỗi chúng ta đều có cái PHÁP THÂN, hay CHÂN TÁNH, hay BỔN THỂ TÂM, tức cái THÂN VÔ TƯỚNG. Nó vốn không sanh, không diệt, không thành, không hoại, thanh tịnh, như như, song hành với Cái Thân Hữu Tướng, nhưng người không tu hành thì không Thấy được.

Người có tu hành, nhờ công năng Quán Sát, Tư Duy mà hiểu được, Thấy được là Mình có cái Tánh hay “Bổn Lai Diện Mục” như mô tả của Lục Tổ khi trình với Ngũ Tổ :

“ Nào dè Tánh mình vốn tự nhiên trong sạch.

Nào dè Tánh mình chứa đầy đủ muôn pháp.

Nảo dè Tánh mình vốn không lay động.

Nào dè Tánh mình có thể sanh ra muôn Pháp”.

Người THẤY TÁNH là người Chứng Đắc của Đạo Phật, vì nhận ra cái THẬT MÌNH, trong khi lúc còn phàm phu mọi người cứ nhận lầm CÁI THÂN TỨ ĐẠI GIẢ TẠM LÀ MÌNH. Chính vì vậy mà tạo Nghiệp, rồi phải Sanh Tử Luân Hồi. THấY TÁNH là giai đoạn mà người tu Phật theo đúng Chánh Pháp phải đạt được. Có THẤY TÁNH thì mới “Kiến Tánh khởi tu” hay “THẤY TÁNH THÀNH PHẬT”. tức là sau khi nhận được cái TA THẬT thì không còn đeo bám cái Ta Giả để có những hành động sai quấy, tạo Nghiệp nữa. Nếu không THẤY TÁNH thì muôn đời vẫn là phàm phu, có vào tu hành thì cũng chỉ hướng thiện, bớt tạo ác Nghiệp mà thôi.

7.- VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT HỎI PHẬT :

Thế nào gọi là Vô Dư Niết Bàn ?

Phật đáp : Ấy là cái Tâm vắng lặng, không lay động vậy.

Các Đức Phật trong Ba đời đều theo con đường này mà đi cho đến chỗ Bất Động Tâm, đồng thọ hưởng thú vui và không vui, lại không có cái vui nào hơn cái vui này, nên gọi là Vô Dư Niết Bàn.

Lược Giải : Niết Bàn không phải là cảnh giới của Phật ở cõi nào đó mà người tu hành chân chính sẽ được về sau khi chết, mà NIẾT BÀN là “cái Tâm vắng lặng, không lay động”, người tu sẽ đạt được ngay lúc đang còn sống, cũng gọi là Hữu Dư Y Niết Bàn.

8.- VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT HỎI PHẬT :

Do công phu tu chứng thế nào mà có thể vượt ra ngoài phàm phu vào Thánh Đạo ?

Phật đáp : Nếu có Thiện Nam Tử, Thiện Nữ nhân nào tin theo Đạo Phật thì phải bỏ việc ái ân, đoạn dứt trần duyên, giữ gìn Trai Giới, chuyên tu lo điều lành, trong sạch ba Nghiệp, xa lìa Sáu Trần, tầm bậc Minh Sư học hỏi Chánh Pháp, theo lời Thầy dạy, không dụng tâm tạp loạn, không trôi lăn theo tình đời, chỉ y theo lời Phật dạy mà tu hành. Ngưới công phu như vậy thì chứng đặng Quả Tu Đà Hoàn.

Lại có người Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân nào tu tập theo Giới Luật và oai nghi thanh tịnh của Phật, nhất tâm tịnh tọa, lòng không tán loạn, các Nghiêp Thân, Khẩu, Ý đều nhiếp phục, Tâm thế gian động ít, tịnh nhiều. Người có công phu như vậy thì chứng đặng Quả Tư Đà Hàm.

Lại có chúng sanh Ba Nghiệp không khởi, Sáu Trần không sanh, thanh tịnh lâu ngày, công đức bền vững, Tâm Tánh thường hiệp nhất, lòng trần thường vắng lặng, ý chẳng động lay, Tâm được tự tại. Người có công phu như vậy thì chứng được Quả A Na Hàm.

Lại có chúng sanh đem Tâm tự tại ấy lập thành định lực định tánh hiện tiền, tức thì hiểu biết ngay Chân Tánh của mình xưa nay vốn vắng lặng. Tâm và cảnh đều dứt bặt dứt, lắng lòng không vọng động.

Người có công phu như thế thì chứng được Quả A La Hán.

Bốn hạng người chứng Quả này có công đức lớn hơn tất cả phàm phu ở cõi trời Lục dục, vào được Đạo Truờng Tịch Diệt của Thánh hiền, đồng xuất thế với Phật, giúp Phật giáo hóa chúng sanh, làm cho thanh tịnh thế giới Chư Phật, thẳng đến Bồ Đề, hằng không điên đảo.

Như thế là Bốn Quả của Thánh nhân đắc đạo.

Lại nữa, này Văn Thù Sư Lợi. Bốn hạng người chứng được Đạo Quả này có lòng tin chơn thật.

Y lời Thầy dạy, nhất tâm dụng ý, Giới đức tinh nghiêm, oai nghi đầy đủ. Đối với tài sắc danh lợi thế gian, một phen đoạn là đoạn hẳn. Một phen tuyệt là tuyệt luôn. Trước sau như nhất.

Một lòng vì đạo. Mặc dù chưa thông đạt triệt để. Tâm Tánh vẫn kiên cố thanh tịnh và giải thoát. Cùng với Phật không khác, cho nên được vào địa vị siêu phàm nhập thánh.

Lược giải : Phần này giải thích về công năng tu hành tương ưng với Quả Vị sẽ đạt được. Tuy nhiên, theo Kinh DIỆU PHÁP LIÊN HOA thì Quả Vị chỉ là Hóa Thành cho người tu còn ham đạt được quả nọ quả kia để an tâm mà tiến tu, sợ họ tu hoài mà không thấy được gì đâm ra nản lòng. Con đường tu hành chỉ là để đạt được kết quả Giải Khổ, không phải là để đạt quả vị lớn, nhỏ, cao, thấp. Ngay cả A La Hán là Quả cao nhất trong Tứ Quả, nhưng Kinh dạy còn phải tiến đến địa vị Bồ Tát, cứu độ Chúng Sinh thì mới Giải Thoát được.

Phàm phu thấy các PHÁP là CÓ, nên dính mắc với nó rồi tạo Nghiệp. Người Chứng Quả A La Hán là người quán soi các pháp, thấy các pháp đều sẽ về KHÔNG, nếu chấp cái Thấy đó thì không đúng với thực tế, vì hiện tại CÁC PHÁP ĐANG CÓ. CÓ TA, CÓ người. CÓ các Pháp Sáng, tối, Xấu, tốt, thiện, ác, dài, ngắn. Có người đẹp, kẻ xấu. CÓ PHÁP đáng ghét, CÓ pháp đáng yêu. Do CÓ mà có KHỔ, VUI, MỪNG, SỢ, THIỆN, ÁC, SINH, TỬ. Vào con đường tu hành thì CÓ PHẬT để noi gương. CÓ PHÁP để học hỏi, CÓ CHÚNG SINH ĐANG ĐAU KHỔ cần được cứu độ cho chúng được Giải Thoát, sao bảo tất cả là KHÔNG ? Do vậy, người Thấy Các Pháp là KHÔNG cần quán sát tiếp để thấy CÁC PHÁP hiện đang CÓ, nhưng thời gian nào đó nó sẽ hư hoại để trở về KHÔNG, nên gọi là TẠM CÓ. Trong cảnh TẠM CÓ này, có những thứ làm cho tham đắm, ham thích sinh ra THAM, SÂN, SI, THƯƠNG GHÉT. Tu hành là để giải quyết cái Tạm CÓ này cho an ổn. Không phải nói các PHÁP LÀ KHÔNG, rồi né pháp, tránh pháp. Không thấy Có Chúng Sinh, không cứu độ Chúng, thì làm sao thành Phật được, vì muốn Thành Phật thì phải “Độ tận chúng sinh”. Do đó, người đạt Quả Vị A La Hán phải tiến đến địa vị Bồ Tát, phải thấy Chúng Sinh để cứu độ cho hết. Phải đưa tất cả Chúng Sinh Thành Phật thì bản thân mới thành Phật.

9.- VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT HỎI PHẬT :

Những hạng người nào có Ngã Tướng, Nhơn Tướng, Chúng Sanh Tướng và Thọ Giả Tướng ?

Những hạng người nào không có bốn tuớng đó ?

Phật đáp : Những hạng người phàm phu tự nhận lấy Bốn Đại sắc thân giả hợp này làm Ngã, còn tham sống, sợ chết, gọi là hạng người có Ngã Tướng.

Lòng còn có thương, có ghét, ý không bình đẳng, gọi là hạng có nhơn Tướng.

Tâm niệm luôn luôn trôi theo dòng thế tục, không cầu Giải Thoát, gọi là hạng có Chúng Sanh Tướng

Tâm thức không vắng lặng, giống nghiệp thường nẩy mầm (manh tâm) Không ngộ được Lý Vô Sanh của Chơn Không, Thật Tánh, nên ý thức thường lưu động theo Vọng Tâm, vọng Cảnh , gọi là hạng có Thọ Giả Tướng.

Bồ Tát tỏ ngộ, biệt Thân này là huyển hóa, thế giới là Vô Thường, nên không tiếc thân mạng.

Thân mạng còn không tiếc, tiếc gì của cải là thứ ngoại thân. Bồ tát chỉ tiếc Giáo Lý Vô Thuợng Đại Thừa của Chư Phật, gọi đó là không có Ngã Tướng.

Lại nhìn Chúng Sanh như con một, không phân biệt oán thân, bình đẳng tể độ. Gọi đó là không có Nhơn Tướng.

Tâm thế gian một phen dứt là dứt hẳn, không còn tương tục. Gọi đó là không có Chúng Sanh Tướng.

Tỏ ngộ được Tự Tánh Vô Sanh, chơn thật của mình. Tâm không trôi theo trần cảnh, Ý thức không lưu động. Tâm chỉ nương theo Nguyện Lực mà hành trì. Gọi đó là không có Thọ Giả Tướng.

Người có đủ Bốn Tướng này tức là phàm phu, không có Bốn Tướng này tức là Bồ Tát.

Lược giải : Luận phân tích ra để thấy có Bốn loại Tướng. Nhưng thật ra chỉ xuất phát từ CÁI CHẤP THÂN này là TA mà ra. Vì vậy, nếu tìm được cái BỔN THỂ TÂM hay cái CHÂN TÂM thì không còn Chấp cái THÂN GIẢ TẠM, sẽ không còn trôi theo trần cảnh thì không còn Bốn Tướng đó nữa.

10. VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT HỎI PHẬT :

Sao gọi là Ngũ Căn Ngũ Phật đồng trồng căn lành ?

Phật đáp : Nếu người trai Giới thanh tịnh, Minh Tâm Kiến Tánh, tầm sư học đạo, được sự khẩu truyền, hiểu biết chơn chánh, thì MẮT như Phật thấy, TAI như PhẬt nghe. MŨI như Phật ngửi, MIỆNG như Phật nói. TÂM như Phật biết. Năm Căn thường hiện năm thần thông như Phật, đồng trồng căn lành, đồng thành Phật Đạo.

Nếu người nào được Thiền Định chắc chắn, làm chủ được Tâm mình, Y lời Phật dạy mà tu hành, Phật dạy người ấy ngay đây, tức thì thành Phật.

Lược giải : Con người có LỤC CĂN là MẮT, TAI, MŨI, LƯỠI, THÂN và Ý. Nếu NGŨ CĂN (MẮT, TAI, MŨI, LƯỠI THÂN) vẫn tiếp xúc với Các Pháp, nhưng không tham đắm vào các pháp. MẮT vẫn nhìn, vẫn thấy mà không vướng mắc để sinh Tâm Tham, Tâm Sân, Tâm Si thì được Giải Thoát. TAI vẫn nghe đủ thứ lời khen tặng, hủy nhục, nhưng không vì đó mà nổi lên thích thú hay Sân Si thì Thoát được cái Nghe. MŨI, LƯỠI, MIỆNG cũng thế. Không vướng vào những gì các Căn thu nhận thì gọi là được Giải Thoát. Do đó gọi là Ngũ Căn Ngũ Phật đồng trồng căn lành.

Luận này khẳng định : “Nếu người nào được Thiền Định chắc chắn, làm chủ được Tâm mình, y lời Phật dạy mà tu hành thì ngay đây, tức thì thành Phật”. Thành Phật chỉ là được Giải Thoát. Phàm phu cũng vì Lục Căn mà dính mắc. Người tu hành nhờ làm chủ được cái Tâm, nên không còn bị Các Căn lôi kéo để phá Giới vì vậy Kinh gọi là Lục Căn thanh tịnh. Tu hành cũng chỉ là tu ở Lục Căn. Kinh Lăng Nghiêm cũng dạy : “Nầy A Nan, khiến cho các ông nhiều kiếp sanh tử luân hồi đó, chỉ vì Sáu Căn của các ông. Nhưng làm cho các ông chứng được Đạo quả Bồ Đề an vui giải thoát cũng chỉ do Lục Căn của các ông mà thôi” .Tất cả lỗi là do Vọng niệm phân biệt. Kinh viết : “ Thế nên các ông ngày hôm nay, khi thấy, nghe, hay, biết mà khởi vọng niệm phân biệt đó là gốc Vô Minh. Còn khi thấy, nghe, hay, biết mà không khởi vọng niệm phân biệt, đó là Niết Bàn.”. Vọng niệm phân biệt chính là Thương, ghét, Tham, Sân, Si vậy.

Chính vì vậy Kinh VIÊN GIÁC có Kệ :

NẾU NGƯỜI ĐOẠN THƯƠNG, GHÉT

CÙNG VỚI THAM SÂN SI

CHĂNG CẦN TU GÌ KHÁC

CŨNG ĐỀU ĐẶNG THÀNH PHẬT.

Thành Phật cũng chỉ là được Giải Thoát. Không phải là thành một vị Thần Linh có quyền cứu độ “Tam Thiên Đại Thiên thế giới” như những người đã hiểu lầm văn tự rồi hương khói Thờ Phật để cầu xin. Đó là hạng nhị Thừa, là những người chưa hiểu đúng ý nghĩa thật sự của Đạo Phật vậy.

......(Còn tiếp)




VVM.25.04.2025.