a. Ngoài ra, khi Kiều xăm xăm băng lối sang nhà Kim Trọng thì:
0435. Sinh vừa tựa án thiu thiu,
Dở chiều như tỉnh, dở chiều như mê.
0439. Bâng khuâng đỉnh Giáp non Thần,
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.
Khi Kim – Kiều thề nguyền là gạn hỏi cho cùng thì tóc tơ căn vặn, nói cặn kẽ xoắn vó với nhau (Từ điển Truyện Kiều):
0451. Tóc tơ căn vặn tấc lòng,
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.
b. Còn tiếng đàn của Kiều cũng làm chàng thờ thẫn như chỉ chú ý vào một việc nghe đàn mà không để ý đến cái gì khác nữa:
0485. Ngọn đèn khi tỏ khi mờ,
Khiến người ngồi đó cũng ngơ ngẩn sầu.
Nhưng rồi sau khi nghe đàn, Kim Trọng đã “đầu mày cuối mắt càng nồng tấm yêu” nên:
0499. Sóng tình dường đã xiêu xiêu,
Xem trong âu yếm có chiều lả lơi.
Ba từ láy được sử dụng trong hai dòng thơ cho thấy cái lòng muốn yêu của Kim Trọng đã nổi lên như sóng dào dạt ở trong lòng, làm cho cái đạo tâm (cái tâm đạo lý) của chàng muốn không đứng vững được nữa, có thể làm cho Kim Trọng không giữ được vẻ đứng đắn với Kiều nữa.
c. Để tải Đạm Tiên xuất hiện trong giấc mơ của Thúy Kiều, Nguyễn Du viết:
0187. Thoắt đâu thấy một tiểu kiều,
Có chiều phong vận, có chiều thanh tân.
0189. Sương in mặt, tuyết pha thân,
Sen vàng lãng đãng như gần như xa.
Từ láy “lãng đãng” hay ở chỗ đã gợi lên được cái bước chân vừa thực vừa hư của bóng ma Đạm Tiên. Bản Đào Duy Anh chép “Sen vàng lững thững như gần như xa”. Từ láy lững thững gợi tả dáng đi thong thả, chậm chạp từng bước một, một dáng đi rất cụ thể. Xét trong tương quan với hình tượng Đạm Tiên, rõ ràng từ láy “lững thững” không đem lại được giá trị thẩm mỹ của câu thơ. Còn lãng đãng là trạng thái di động chậm chạp, nhẹ nhàng, khi ẩn khi hiện, khi xa khi gần, mờ mờ ảo ảo (Từ điển tiếng Việt) rất phù hợp với bóng ma Đạm Tiên. Cho nên ta có thể nói việc lựa chọn từ của nhà thơ bao giờ cũng chịu sự chi phối trực tiếp của hình tượng là như vậy.
Trong Từ điển Truyện Kiều chỉ có một từ lãng đãng và giải thích là lờ mờ, chập chờn trong câu:
1085. Trời tây lãng đãng bóng vàng,
Phục thư đã thấy tin chàng đến nơi.
Lãng đãng là ở trạng thái di động chậm chạp nhẹ nhàng khi ẩn khi hiện khi gần khi xa, khi mờ khi ảo (Từ điển tiếng Việt) đều đúng với cả hai trường hợp trên, nói về bước chân của Đạm Tiên cũng như bóng chiều phía trời tây.
d. Ta hãy xem hành động của Tú Bà được Nguyễn Du dùng từ láy để mô tả ra sao. Kiều vừa đến Lâm Tri đã thấy mụ Tú “ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao” tỏ ra xuồng xã hỏi chào:
0925. Trước xe lơi lả han chào,
Vâng lời, nàng mới bước vào tận nơi.
Mụ đã nổi cơn tam bành đánh chửi Kiều đến nỗi nàng phải tự tử thì mụ run lên vì sợ mất vốn đến nỗi hai hàm răng va vào nhau cầm cập:
0989. Nàng thì bằn bặt giấc tiên,
Mụ thì cầm cập mặt nhìn hồn bay.
Mụ phải tìm cách mơn trớn vuốt ve nàng để lựa lời khuyên giải:
1003. Tú Bà chực sẵn bên màn,
Lựa lời khuyên giải mơn man gỡ dần.
Nhưng khi Kiều đã chạy trốn theo Sở Khanh và bị bắt lại thì:
1133. Tú Bà tốc thẳng đến nơi,
Hăm hăm áp điệu một hơi lại nhà.
1135. Hung hăng chẳng hỏi chẳng tra,
Đang tay vùi liễu dập hoa tơi bời.
Ba từ láy liên tiếp hăm hăm, hung hăng, tơi bời cho thấy rõ hành động tàn bạo, dữ tợn của mụ Tú ghê gớm đến thế nào. Nhưng khi Kiều đã chịu phép của mụ đồng ý tiếp khách thì thái độ của mụ khác hẳn, 4 từ láy gạn gùng, nồng nàn, thong dong, dặn dò cho thấy cái vẻ khoan thai, dịu dàng của mụ:
1153. Mụ càng kể nhặt kể khoan,
Gạn gùng đến mực nồng nàn mới tha.
1199. Vừa tuần nguyệt sáng gương trong,
Tú Bà ghé lại thong dong dặn dò.
e. Trong quan hệ với Thúy Kiều, Thúc Sinh dần dần, từ xa đến gần, từ việc này sang việc khác tạo ra một quan hệ tiếp xúc gần gũi nên Nguyễn Du viết:
1289. Sớm đào tối mận lân la,
Trước còn trăng gió, sau ra đá vàng.
Rồi bị lôi cuốn tập trung vào vui chơi không dứt ra được:
1299. Miệt mài trong cuộc truy hoan,
Càng quen thuộc nết, càng dan díu tình.
Nếu Kim Kiều thề nguyền là Tóc tơ căn vặn tấc lòng thì với chàng Thúc lại là:
1367. Cùng nhau căn vặn đến điều,
Chỉ non thề bể nặng gieo đến lời.
Rồi tỉ tê chuyện tâm tình suốt đêm cho gần tới sáng:
1369. Nỉ non đêm ngắn tình dài,
Ngoài hiên thỏ đã non đoài ngậm gương.
Trước phủ đường, Thúy Kiều bị đánh đập tàn nhẫn nên:
1431. Nghĩ tình chàng Thúc mà thương,
Nẻo xa trông thấy lòng càng xót xa.
Với tiếng khóc nhỏ kéo dài, chàng có vẻ ngậm ngùi như cố giấu, cố nén nỗi đau lòng để trình bày với quan phủ về quan hệ của mình với Thúy Kiều:
1439. Sụt sùi, chàng mới thưa ngay,
Đầu đuôi kể lại sự ngày cầu thân.
Được Kiều khuyên nhủ động viên, Thúc Sinh về Vô Tích muốn thú thật với Hoạn Thư mà trước hết là dần tìm cách từng bước từ xa đến gần, xem ý vợ cả ra sao:
1573. Chàng về xem ý tứ nhà,
Sự mình cũng rắp lân la giãi bày.
Nhưng rồi chàng nghĩ Hoạn Thư đã bất động mảy may, nói ra càng lôi thôi nên sau này biết thì đã muộn:
1579. Những là e ấp dùng dằng,
Rút dây sợ nữa động rừng lại thôi.
Có thể nói những từ láy Nguyễn Du dùng để miêu tả hành động nhân vật đều biểu thị đúng những điều muốn nói. Tuy Nguyễn Du chấp nhận lối kể khái quát nhưng đã biết đi đến tận cùng những đặc điểm, tính chất sự vật nên dễ gây được ấn tượng nơi người đọc và lớp từ láy dùng như trên đây đã giúp ông thực hiện tốt được ý đồ nghệ thuật của mình.
IV. TỪ LÁY VỚI NỘI TÂM NHÂN VẬT
1. Là một phương diện đời sống quan trọng của con người, nội tâm là cuộc sống bên trong bao gồm các trạng thái tình cảm, các cảm giác và xúc cảm. Khi xây dựng hình tượng nhân vật, nhà văn không thể bỏ qua việc khám phá và thể hiện phương diện đời sống quan trọng này, nhưng do những quan niệm mỹ học khác nhau của thời đại mình, từng nhà văn sẽ có sự chú ý khác nhau…
Phần lớn các truyện Nôm cũng như văn xuôi thời Trung đại do chú trọng đến hành động, các tình tiết éo le nên dường như bỏ qua việc miêu tả đời sống nội tâm nhân vật. Trái lại, Nguyễn Du với Truyện Kiều bất hủ đã biết tận dụng sức mạnh của thơ lục bát, vốn là một thể thơ giàu chất trữ tình, đi sâu khám phá chiếm lĩnh đời sống bên trong các nhân vật và thể hiện nó bằng nhiều hình thái ngôn ngữ khác nhau: ngôn ngữ nhân vật, tả tình, tả cảnh ngụ tình. Vì vậy người Việt Nam yêu thích Truyện Kiều vì đã nói lên được những buồn vui đời mình qua những dòng thơ trữ tình giàu âm điệu với những từ ngữ chính xác và trong sáng…
Khi đi vào miêu tả nội tâm nhân vật, từ láy tỏ ra có một ưu thế rõ rệt, thể hiện trước hết vì trong ngôn ngữ độc đáo của mình, người Việt Nam có một lượng từ láy rất phong phú, và theo sự tìm hiểu của chúng tôi thì tiếng Việt là một trong những ngôn ngữ có lượng từ láy phong phú nhất. Những từ này bao gồm đủ các lĩnh vực như: các từ chỉ tâm trạng (như chán chường, dùng dằng, rụt rè, ngao ngán, ngơ ngẩn, ngổn ngang, bâng khuâng, lâng lâng, bồi hồi…), các từ chỉ mức độ tình cảm (như khăng khít, tán hoán, tê mê, lai láng, canh cánh…), các từ chỉ thái độ (như hằm hằm, hung hăng, ngại ngùng, sượng sùng…) và một số từ khác (thẫn thờ, ngậm ngùi, ngơ ngẩn, rụng rời…). Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du dùng tới khá nhiều từ láy loại này đã nói lên được phần nào ý thức của nhà thơ trong việc sử dụng chúng vào tả tình như thế nào.
2. Tuy đã sử dụng một lượng lớn từ láy vào việc tả tình, Nguyễn Du lại biết vận dụng nhiều cách để từ láy xuất hiện khá linh hoạt, khi trong ngôn ngữ tác giả, khi trong ngôn ngữ nhân vật. Đặc biệt với việc miêu tả nội tâm Thúy Kiều, rồi đến Kim Trọng và một số nhân vật khác, các từ láy dù không vẽ ra được, không làm hiện lên được một cách cụ thể các trạng thái tình cảm của nhân vật nhưng nó có thể giúp cho ta cảm nhận được thực thể trừu tượng đó. Đó chính là một ưu thế của từ láy mà các lớp từ khác không có được.
Ta hãy xét đến các từ láy trong việc thể hiện nội tâm Kim Trọng trong mối tình đầu với Thúy Kiều. Ngay trong buổi tương kiến đầu tiên, Kim đã thấy “Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai”, để rồi sau đó cả chàng và nàng đều ở trong trạng thái như thức như tỉnh, nửa ngủ nửa mê:
0165. Chập chờn cơn tỉnh cơn mê,
Rốn ngồi chẳng tiện, dứt về chỉn khôn.
Từ hội Đạp Thanh trở về là hình ảnh nàng lúc nào cũng ở bên lòng không để cho yên:
0245. Chàng Kim từ lại thư song,
Nỗi nàng canh cánh bên lòng biếng khuây.
0247. Sầu đong càng lắc càng đầy,
Ba thu dọn lại một ngày dài ghê.
Từ láy canh cánh có một nội hàm rất đáng chú ý. Từ điển Truyện Kiều giải thích đây là từ chỉ tình hình mang luôn (mối thương nhớ) ở trong lòng, không bao giờ khuây. Từ điển tiếng Việt giải thích tương tự là (điều lo nghĩ) lúc nào cũng ở bên lòng không để cho yên. Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện khi nêu một số suy nghĩ về nghệ thuật dịch Truyện Kiều đã tâm sự: “Khi một người tình cảm thấy bâng khuâng là lúc anh ta cảm thấy như loãng ra trong sự vật; còn khi hình ảnh người yêu ám ảnh anh ta, và khi mỗi nhịp đập của con tim lại gợi nhớ đến nàng, nhà thơ lại dùng từ canh cánh và người dịch đành phải dùng cả một đoạn văn rườm rà”.
Cụ thể là ông phải dịch 4 câu thơ trên thành:
Derrière sa fenêtre, parmi ses livres, le souvenir
Obsédait le jeune Kim; plus il jaugeait sa tristesse
Plus elle débordait. Les jours d’attente s’étiraient
En de longs et interminables automnes...
Rồi chàng Kim luôn luôn nghĩ đến Kiều, liên miên không dứt, người thiếu nữ mà chàng nhớ mong ước muốn đến nỗi trong lòng buồn rầu chán nản, không còn thấy thích thú gì nữa:
0251. Tuần trăng khuyết, đĩa dầu hao,
Mặt tơ tưởng mặt, lòng ngao ngán lòng.
Đến gió thổi vào làm bức mành lay động cũng có tiếng phất phất như đánh đàn để mùi hương đáng lẽ làm cho khuây lòng, lại chỉ gây thêm niềm nhớ đến mùi hương của Kiều và nước trà lẽ ra làm cho êm giọng lại cho thấy thiếu ý vị tình tứ, uống trà mà chẳng thấy có ý vị gì:
0255. Mành Tương phân phất gió đàn,
Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình.
Để đến nỗi chàng có những cảm xúc luyến tiếc nhớ thương xen lẫn gây ra trạng thái trong lòng nghĩ ngợi thương nhớ ngẩn ngơ phải tìm đến nơi đã được gặp Kiều:
0259. Bâng khuâng nhớ cảnh nhớ người,
Nhớ nơi kỳ ngộ vội dời chân đi.
Không gặp được nàng, đến nhà Kiều lại là cảnh kín cổng cao tường, chàng còn đang mải nghĩ ngợi chưa biết nên làm gì, thẫn thờ vì thương nhớ thì lại thấy được một ngôi nhà bỏ trống mà vội tìm cách đến thuê:
0273. Tần ngần đứng suốt giờ lâu,
Dạo quanh chợt thấy mé sau có nhà
Từ láy tần ngần diễn tả vẻ người thẫn thờ vì đang mải nghĩ ngợi chưa biết nên làm gì hoặc quyết định ra sao, đúng với tâm lý của chàng. Chính tại ngôi nhà này, gần hai tháng sau, Kim Trọng đã nhặt được cành thoa mà chàng cứ ngắm đi ngắm lại một cách chăm chú, kỹ càng đầy thích thú thì mùi hương trầm mà nàng xức vẫn nhẹ nhàng lan tỏa chỉ đủ để chàng cảm nhận chưa phai nhạt để ngay sáng hôm sau đã phải tìm tòi ngẩn ngơ:
0299. Liền tay ngắm nghía biếng nằm,
Hãy còn thoang thoảng hương trầm chưa phai.
0301. Tan sương đã thấy bóng người,
Quanh tường ra ý tìm tòi ngẩn ngơ.
Rồi sau đó khi đã vượt qua tường được gặp Kiều, là những từ láy mang nội tâm của cả hai người:
0319. Thang mây dón bước ngọn tường.
Phải người hôm nọ rõ ràng chẳng nhe.
0321. Sượng sùng giữ ý rụt rè,
Kẻ nhìn rõ mặt, người e cúi đầu.
Quả là từ đấy mối tình như thấm sâu vào tư tưởng tình cảm đến nỗi tâm trí như đang để ở đâu đâu, chàng như không còn để ý gì đến xung quanh:
0363. Từ phen đá biết tuổi vàng,
Tình càng thấm thía, dạ càng ngẩn ngơ.
Nhân ngày sinh nhật ngoại gia, Kiều đã sang nhà Kim Trọng, đề thơ trên bức tranh Tùng rồi tâm sự và trong lòng họ cảm thấy hả hê, vui tươi đầy sức sống như say trong men rượu:
0423. Đủ điều trung khúc ân cần,
Lòng xuân phơi phới, chén xuân tàng tàng.
Khi Kiều sang nhà Kim Trọng lần thứ hai thì chàng vẫn đang còn đang trong trạng thái như luyến tiếc nhớ thương xen lẫn như ngơ như ngẩn, chập chờn nửa tỉnh nửa mơ:
0439. Bâng khuâng đỉnh Giáp non Thần,
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.
Họ đã cùng nhau thề thốt dưới vầng trăng vằng vặc, rồi Kiều đàn cho chàng nghe và Kim Trọng đã:
0499. Sóng tình dường đã xiêu xiêu,
Xem trong âu yếm có chiều lả lơi.
Khi Kim Trọng phải về Liêu Dương thì tâm sự của chàng được diễn tả bằng từ láy đinh ninh nói đi nói lại nhiều lần, nói tỉ mỉ, cặn kẽ, từ đầu đến cuối:
0537. Gót đầu mọi nỗi đinh ninh,
Nỗi nhà tang tóc, nỗi mình xa xôi.
Và đến khi phải chia tay lại là những từ láy dùng dằng, ngại ngùng tả nội tâm không muốn xa nhau của Kim Trọng và Thúy Kiều:
0559. Dùng dằng chưa nỡ dời tay,
Vầng đông trông đã đứng ngay nóc nhà.
0561. Ngại ngùng một bước một xa.
Một lời trân trọng, châu sa mấy hàng.
Để dẫn đến cảnh:
0563. Buộc yên quẩy gánh vội vàng,
Mối sầu sẻ nửa, bước đường chia hai.
3. Nội tâm con người là một lĩnh vực khó nắm bắt và khó cụ thể hóa. Các trạng thái tình cảm của con người lại vốn rất tinh tế và đa dạng nên cảm nhận được là điều rất khó. Và con người đã sáng tạo ra một hệ thống từ ngữ chỉ trạng thái tâm lý, mà từ láy chiếm số lượng tương đối lớn. Nên khi phải phân loại những từ này cũng rất khó khăn. Ở đây chúng tôi sẽ vận dụng để xem xét vai trò của từ láy trong việc miêu tả nội tâm nhân vật Truyện Kiều như thế nào.
Ngày nào Kiều còn “nhỏ nước mắt” khóc nàng Đạm Tiên với hàng loạt từ láy lâm ly và biết bao đau xót (những đau đớn, phũ phàng, mòn mỏi, phôi pha…) thì nay chính nàng cũng không thoát khỏi bàn tay của số phận. Ta hãy xem Nguyễn Du đã sử dụng từ láy như thế nào để miêu tả tâm trạng của Thúy Kiều ở lầu xanh Lâm Tri.
Bị ném vào lầu xanh trong cuộc sống “sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh”, Kiều càng thêm xót xa và đoạn ngôn ngữ tác giả sau đây cũng là lời nàng băn khoăn tự hỏi:
1219. Những nghe nói đã thẹn thùng,
Nước đời lắm nỗi lạ lùng khắt khe.
Rồi đến những đoạn sau với hàng loạt từ láy tả tâm sự của nàng:
1233. Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,
Giật mình, mình lại thương mình xót xa.
1235. Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
1237. Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!
Tác giả đã sử dụng 4 từ láy trong 6 câu với 3 thành ngữ, đoạn thơ thể hiện tâm trạng đau đớn của Kiều khi lâm vào cuộc sống nhục nhã chốn lầu xanh. Với cấu trúc tan tác như hoa giữa đường vốn là cấu trúc quen thuộc của ca dao, với thành ngữ phong gấm rủ là, dày dạn gió sương và bướm chán ong chường, đoạn thơ thêm đậm đà chất dân gian. Và sau đó lại một đoạn với 7 từ láy trong 8 câu:
1247. Vui là vui gượng kẻo là,
Ai tri âm đó mặn mà với ai.
1249. Thờ ơ gió trúc mưa mai,
Ngẩn ngơ trăm nỗi dùi mài một thân.
1251. Ô m lòng đòi đoạn xa gần,
Chẳng vò mà rối, chẳng dần mà đau…
1267. Song sa vò võ phương trời,
Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng.
1269. Lần lần thỏ bạc ác vàng,
Xót người trong Hội đoạn trường đòi cơn.
Nhìn chung khi đề cập đến nội tâm nhân vật, Nguyễn Du hay dùng từ láy và thành ngữ. Tác dụng của từ láy và thành ngữ ở đây đã góp phần tạo âm điệu, ngữ điệu cho đoạn thơ. Ở nhiều chỗ, ta cũng không thể xác định được đây là những ý nghĩ của Kiều hay là của người kể chuyện và đó cũng là một đặc điểm của ngòi bút Nguyễn Du.