Đ ạo Phật được mệnh danh là Đạo ĐỘ KHỔ, nhưng “Độ” như thế nào ? có lẽ là điều mà nhiều thế hệ qua mạnh ai nấy hiểu, vì thế mới có nhiều kiểu tu hành như chúng ta vẫn chứng kiến. Vậy thì thế nào là KHỔ và cách thức mà ĐẠO PHẬT chân chính đã “ĐỘ” cho Phật Tử ra sao ?
Mọi người đều biết là bất cứ ai, nếu muốn được PHẬT “độ” thì phải tu hành. Nhưng cũng chỉ hai chữ Tu hành thôi, mà ta thấy có đủ thứ Tông, Phái, ai cũng cho rằng mình đang tu hành theo Đạo Phật. Như vậy làm sao biết được cách thức nào mới là tu hành đúng nhất ?
Nhìn chung thì ta thấy, ai cũng cho rằng người muốn Tu Phật thì phải Xuất Gia, phải bỏ đời, không được dính líu tới vợ, chồng, con cái và những việc làm ăn kiếm tiền của phàm tục. Ngày tháng chỉ tụng kinh, gỏ mõ, lạy Phật, Ngồi Thiền, Học Pháp… Như vậy đã đủ cho một quy trình tu học chưa ? Tu như vậy liệu đã đủ cho Phật “Độ” chưa ? Đã Hết Khổ hay chưa ?
Trước hết, chúng ta cần tìm hiểu xem Đạo Phật định nghĩa thế nào là Khổ.
Theo Đạo Phật, có Bốn cái KHỔ lớn nhất, gọi là TỨ KHỔ ĐẾ, trong đó 2 phần đầu là giải thích về nguyên nhân của KHỔ, hai phần sau là cách thức để THOÁT KHỔ.
Giải thích về những Nỗi KHỔ, Đạo Phật cho rằng : Đó là những điều trái ý, phiền lòng mà con người phải đối mặt trong suốt kiếp sống.
Đã SINH ra làm con người là phải KHỔ rồi. Nỗi Khổ hiện diện ngay từ lúc hoài thai 9 tháng trong bụng mẹ, chịu bó mình trong môi trường, tối tăm, chật chội, ngột ngạt, co duỗi cũng bị hạn chế. Do đã quen với môi trường chật hẹp, nên vừa khi chui ra khỏi bụng mẹ thì đứa bé lại phải hoảng sợ, chới với trong môi trường mênh mông xa lạ, không biết bám víu vào đâu ? Vì vậy, người lớn thường bó hai tay đứa bé sơ sinh lại để nó khỏi hốt hoãng chới với.
Từ khi đứa bé chào đời, người mẹ phải chăm từng chút, tập cho uống nước, cho bú sữa để cái Thân bé được lớn dần, rồi tập cho ăn, từ chất lỏng dần là đến cơm, cho tới nó xương cứng, có thể mọc răng để ăn được thức ăn cứng hơn thì bổ sung thịt, cá rau và những thứ bổ dưỡng. Xương bé cũng cứng dần để nó có thể tập lật, bò, trường, đứng chựng rồi đi chập chững từng bước, đến đi vững, rồi chạy, nhảy… Mỗi bước tiến bộ của con là cả một quá trình chăm nom, luyện tập theo sát của người mẹ, cho đến lúc nó có thể tự đi, chạy, và đủ tuổi để tự đi một mình thì đưa đến trường để được học đọc, viết, học tính toán để hòa nhập vào cuộc đời.
Đứa bé cứ thế tiếp thu dần những thứ nó cần biết để làm hành trang cho cuộc sống. Cha mẹ hay người lớn sẽ tùy theo khả năng gia đình cũng như sức tiếp thu của nó để trang bị cho nó chút vốn sống, nghề nghiệp, để bước vào cuộc đời, tự làm ăn để nuôi sống bản thân.
Trong thời gian ra đời, đứa trẻ sẽ dần trưởng thành nhờ cuộc đời dạy cho những bài học thuận, nghịch để cảm nhận hết những vui, buồn của kiếp người. Nó sẽ gặp những điều vui thích, hài lòng cũng như những gì trái ý làm khổ đau, để thấy rằng những ước muốn mà không đạt được cũng Khổ, mà Có rồi phải xa lìa cũng là Khổ. Người thương mà không được ở gần cũng Khổ, kẻ oán ghét cứ phải đối mặt, tiếp xúc cũng là Khổ. Những điều như thế muốn tránh cũng không được, lại cứ lập đi lập lại, gọi là Huân Tập. Lần hồi rồi GIÀ, BỆNH, cuối cùng CHẾT là cái Khổ lớn nhất của con người, vì đã quen sống trong cái Thân, rời cái Thân ra không biết sẽ về đâu ? Không biết điều gì đang đợi phía bên kia, nên phần đông con người đã phải hốt hoảng, lo sợ trước cái Chết.
Tóm lại, theo Đạo Phật thì cả cuộc sống là những NỖI KHỔ đan xen với nhau, làm cho kiếp sống của con người không có được cái hạnh phúc, an vui. Nhưng điều đáng lo ngại là không phải chết đi là chấm dứt, mà do BÔN THỂ TÂM của mỗi người là trường tồn, bất Sinh nên bất Diệt. Thế rồi lại do Tạo Nghiệp mà phải tái sinh để TRẢ NGHIỆP, tạo thành một vòng quay. Hết Sinh rồi Tử. Tử rồi lại Sinh, triền miên không có lúc dừng. Vì thế, ĐẠO PHẬT ra đời là để đưa ra một phương thức giúp con người vẫn tiếp tục sống mà không còn KHỔ nữa, được hạnh phúc, an vui, gọi là ĐỘ KHỔ cho con người.
Để THOÁT KHỔ thì phải biết nguyên nhân vì sao có KHỔ cũng như cách thức để TRỪ KHỔ.
Thoạt nhìn thì ai cũng thấy sở dĩ KHỔ là do CÓ CÁI THÂN. Cái THÂN như tấm bia mà muôn ngàn mũi tên KHỔ cứ đổ vô đó. Để Thoát Khổ, Đức Thích Ca đã làm một cuộc khám phá, vì trước khi có Đạo Phật thì đã có nhiều tôn giáo và hầu hết đều cho rằng do Thượng Đế hay vị Thần Linh tối cao nào đó đã điều khiển cuộc sống của con người, nên đa phần đều tôn thờ Thần Linh hay Thượng Đế để xin được nhẹ tay, được bảo vệ. Có nhóm thì cho rằng do Cái Thân đã làm tội mà kiếp này phải chịu trừng phạt, nên họ hành Khổ Hạnh để chuộc lỗi. Nhưng khi Đức Thích Ca hỏi họ là có biết quá khứ mình đã làm bao nhiêu tội và phải hành hạ cái Thân trong bao lâu mới hết, thì họ không trả lời được.
Không phải chỉ cần rời khỏi gia đình mà Đức Thích Ca đã khám phá ra Con Đường Giải Thoát ngay. Ngài cũng đã phải học với nhiều Thầy, nhiều pháp môn, cũng hành Khổ Hạnh đến nỗi thân thể suy kiệt suýt chết. Nhưng Ngài chợt nhận ra, không thể lần mò đi trong bóng tối, mà cần trí tuệ minh mẫn để xét soi mọi việc. Nhưng “tinh thần không thể minh mẫn trong một thể xác yếu đuối”, nên đã bỏ Khổ Hạnh, nhận bát cháo sữa của cô gái chăn bò, rồi trải tòa cỏ Ngồi Thiền dưới cội cây Bồ Đề trong suốt 49 ngày đêm.
Rạng sáng đêm cuối cùng thì Ngài khám phá ra : Thủ phạm làm ra những Nỗi KHỔ mà cái Thân phải gánh chịu, không phải là do Cái Thân, mà là Cái TÂM MÊ hay là VỌNG TÂM đang ở chung với Cái Thân. Đó là PHẦN VÔ TƯỚNG, rất linh hoạt, ở trong cái Thân. Chính nó, trong quá khứ, vì MÊ LẦM nên đã điều khiển cái Thân làm mọi điều tốt hay xấu. Cái THÂN chỉ là tai sai của nó mà thôi. Do đó, muốn thay đổi thì không phải hành hạ Cái THÂN, mà phải CHUYỂN HÓA CÁI TÂM, làm cho nó HẾT MÊ LẦM, trở về lại với CÁI TÂM THANH TỊNH khi chưa nhiễm. Chính vì vậy mà Tu Phật gọi là TU TÂM, vì nơi cần tu sửa chính là cái Tâm, không phải là Cái Thân. Người không hiểu biết đường lối tu hành mới bắt cái Thân phải hành Khổ Hạnh hay giữ hàng mấy trăm Giới, vì dù có hành hạ, trói buộc cái Thân cỡ nào, nhưng nếu chưa chuyển hóa được Cái Tâm thì nó sẽ lại tiếp tục điều khiển cho cái Thân làm những điều gây ra hậu quả không tốt để Thân sau lại phải gánh chịu, vòng Luân Hồi lại tiếp tục quay.
Chính vì vậy, thay vì chú trọng vào hình tướng : Cạo tóc, đắp Y, chay lạt, giữ hàng mấy trăm Giới, đi đứng phải giữ đúng Tứ Oai Nghi, thì người tu Phật chân chính phải TÌM TÂM, THẤY TÂM rồi TU sửa cái TÂM, gọi là TU TÂM. Giống như những hình ảnh được diễn tả trong THẬP MỤC NGƯU ĐỒ của Thiền Sư Khuếch Am Sư Viễn thời Tống. Người chăn trâu do không quản được con trâu, để nó đi phá lúa mạ. Do đó phải theo dấu nó để đi tìm, bắt nó rồi quản thúc nó. Đó là chỗ khác nhau giữa những người tu hành theo đúng Chánh Pháp và những người chưa hiểu đúng mục đích của Đạo Phật nên không Sửa đúng nơi cần Sửa, do đó họ hành đủ thứ cách nhưng không đạt được kết quả như Đạo Phật hướng tới.
Theo Chư Tổ, có ba nơi để tu sửa, đó là THÂN, TÂM và PHÁP. Pháp là những thứ bên ngoài mà hàng ngày mỗi người đều phải đối mặt, trong đó có PHÁP THUẬN, làm cho xứng ý, vừa lòng, và những NGHỊCH PHÁP, làm cho đau khổ, buồn phiền.
THÂN là chỗ tiếp nhận Các Pháp. TÂM lãnh trách nhiệm phân tích rồi cho ra phản ứng để đối pháp. Với Pháp Thuận thì nó sẽ vui vẻ, hạnh phúc. Ngược lại với Pháp Nghịch thì đau khổ, buồn rầu hoặc nổi lên Sân si. Khi toan tính làm gì thì cũng chính cái Tâm khởi xướng. Do đó mà muốn điều chỉnh thì phải nhắm vào Cái Tâm. Khi nó thông suốt thì nó sẽ không xui cái Thân gây tội, gây Nghiêp nữa.
Lý do cần Tu hành để được Giải Thoát là vì kiếp sống không chỉ có một lần duy nhất hiện tại đây. làm xấu hay tốt cũng sẽ kết thúc khi Cái Thân Chết, mà do Cái CHÂN TÂM không chết theo cái Thân, nên những gì đã gây tạo thì cái Tâm sẽ phải nhận một cái Thân Tứ Đại mới để TRẢ, nếu là Nhân Ác, hoặc Nhận, nếu là Nhân Thiện. Nếu không muốn điều đó cứ lập đi, lập lại, hết kiếp này qua kiếp khác thì phải có cách thức để ngưng vòng quay này. Do đó, Đạo Phật đưa ra lý thuyêt, giải thích nguyên nhân của những nỗi KHỔ, và cách thức để Thoát Khổ.
Do CÁI TA THẬT (CHÂN NGÃ) của mỗi chúng ta chính là CÁI CHÂN TÂM. Nó Vô Tướng, nên trường tồn, không bị ảnh hưởng của Quy Luật SINH, DIỆT. Nhưng do con người đã Mê Lầm, nên CHẤP LẦM CÁI THÂN TỨ ĐẠI GIẢ HỢP, cho đó LÀ MÌNH, không biết đó chỉ là cái THÂN NGHIỆP, ứng hiện ra đây là để TRẢ những gì đã gieo ở kiếp trước. Đã vậy, trong lúc Trả Nghiệp thì lại tiếp tục gây ra nhiều Nghiệp mới. Đã tạo Nghiệp thì khi cái Thân hiện tại hết kiếp, phải nhận lấy một Cái Thân GIẢ TẠM khác để TRẢ những NGHIỆP đã tạo. Do đó mà vòng quay LUÂN HỒI không dừng. Hết Sinh lại Tử. Tử rồi lại Sinh. Vì vậy, muốn Giải Thoát thì cần có DIỆT ĐẾ và ĐẠO ĐẾ để kết thúc vòng Sinh Tử Luân Hồi.
Theo Đạo Phật, sở dĩ con người phải chịu Sinh Tử Luân Hồi là do VÔ MINH. VÔ MINH có nghĩa là Không Sáng Suốt. Vì thế, muốn kết thúc vòng quay này thì phải SÁNG SUỐT, tức là phải có TRÍ HUỆ để phá Vô Minh. Trí Huệ có được là nhờ TƯ DUY, QUÁN SÁT. Do đó mà cần THIỀN ĐỊNH, tức là cần thời gian Ngồi tĩnh lặng, ngưng nghỉ hết mọi hoạt động để Tư Duy tìm Con Đường Thoát Khổ.
Nói về cách thức để có Trí Huệ, Kinh Viên Giác có Kệ :
Biện Âm, ông nên biết
Các Trí Huệ thanh tịnh
Của Tất cả Bồ Tát
Đều do THIỀN ĐỊNH sanh
KỆ cũng giải thích thế nào là THIỀN ĐINH :
Thiền Định là CHỈ QUÁN
Và CHỈ QUÁN SONG TU
Và khẳng định :
Mười Phương các Như Lai
Và Hành giả ba đời
Đều y pháp môn này
Mà đặng thành Bồ Đề.
Có nghĩa là nếu không CHỈ, QUÁN và CHỈ QUÁN SONG TU thì không thể nào thành tựu được Vô Thượng Bồ Đề.
Có TRÍ HUỆ mới phá được Vô Minh. Có Sáng suốt mới biết từ bao nhiêu kiếp mỗi chúng ta vì Vô Minh mà tạo Nghiệp rồi theo vòng THẤP NHỊ NHÂN DUYÊN mà phải triền miên trong vòng Sinh Tử Luân Hồi. Bao giờ chặt đứt được mắc xích VÔ MINH thì vòng Sinh Tử Luân hồi mới kết thúc.
Có TRÍ HUỆ để thấy được điều gì ?
Để thấy rằng CÁI THÂN TỨ ĐẠI GIẢ TẠM không phải là TA hay MÌNH. TA hay MÌNH THẬT (CHÂN NGÃ) chính là PHẦN VÔ TƯỚNG, hay cái BỔN THÊ TÂM, đang ở trong cái Thân Tứ Đại Giả tạm này. Vì thế người muốn tu hành Thoát Khổ phải theo hướng dẫn của Đạo Phật để TÌM cái CHÂN TÂM. Khi Thấy được BỔN THỂ TÂM của mình thì gọi là THẤY TÁNH. Chư vị Giác Ngộ gọi là “Kiến Tánh khởi tu” hay “Kiến Tánh thành Phật”. Có Thấy Tánh thì cái Tánh mới hướng dẫn cho tiếp tục tu tiến để đạt kết quả. Người tu Phật phải dùng Quán Sát, Tư Duy để tìm thủ phạm đã gây ra Ngôi Nhà sinh Tử, để thấy rằng đó là CÁI TÂM MÊ LẦM hay còn gọi là VỌNG TÂM.
Vì sao gọi là MÊ LẦM ? Vì NHẬN LẦM CÁI THÂN GIẢ TẠM là MÌNH, trong khi nó chỉ là CÁI THÂN DUYÊN NGHIỆP, vay mượn của Tứ Đại, chỉ tồn tại nhiều lắm là một trăm năm rồi sẽ trả về cho Tứ Đại. TA hay CHÂN NGÃ, là cái phần VÔ TƯỚNG, LINH HOẠT, BẤT SINH, BẤT TỬ ở trong Cái Thân Giả này. Vì thế, muồn tìm được cái MÌNH THẬT thì phải theo hướng dẫn của Đạo Phật để Quán sát, Tư duy. Đó là mục đích của THIỀN ĐỊNH.
Tư Duy để tìm gì ?
Tư Duy để thấy : “GIẢI THOÁT HAY RÀNG BUỘC CHỈ Ở MỘT TÂM. Vì thế, muốn Giải Thoát thì Phải Thấy được Cái Tâm rồi mới tu sửa nó. Do vậy, Tổ Đạt Ma dạy : “Tu Phật là Tu Tâm”. “Tức Tâm tức Phật”. “Nếu muốn tìm Phật thà tìm Tâm”.
Ngũ Tổ thì dạy : “Nếu không thấy Tâm thì học Pháp vô ích”.
Kinh Tâm Địa Quán viết : “Trong Ba cõi lấy Tâm làm chủ. Ngưởi quán được Tâm được giải thoát cứu cánh. Người không quán được Tâm ở mãi trong triền phược. Ví như muôn vật đều từ đất sinh. TÂM pháp sinh ra Thiện và Ác, Năm Thú (Trời, Người, Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh), Bậc Hữu học, Bậc Vô Học, Bậc Độc Giác, Bậc Bồ Tát cùng Như Lai trong thế gian và xuất thế gian. Bởi nhân duyên ấy, Ba Cõi duy Tâm. Tâm là “Địa” (đất). Hết thảy phàm phu thân cận bạn lành, nghe pháp Tâm địa. Như Lý quán sát, Như Nói tu hành, mình làm, dạy người, khen ngợi, khuyên gắng, đón mừng, an ủi. Những ngưởi như thế sẽ dứt được Hai Chướng (Lý Chướng, Sự Chướng), mau trọn muôn hạnh và chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Mục đích của THIỀN ĐỊNH là tập trung tư tưởng để Tư Duy. Nhưng nhiều người không được người đã chứng đắc nhờ Thiền Định hướng dẫn, nên họ cũng NGỒI mà không biết phải làm gì trong lúc Ngồi đó sinh ra nhiếu kiểu :
- NGỒI khoanh tay khoanh chân rồi dứt bặt tư tưởng, gọi là DIỆT TẬN ĐỊNH. Kinh Duy Ma Cật gọi là “Ngồi sửng ở đó”. Ngồi như thế thì khác gì người ngủ ngồi. Xả Thiền ra cũng đâu có thêm được sự hiểu biết nào ?
- Cái Thân thì NGỒI một đống, nhưng thả tư tưởng rong chơi các cõi. Tiếp xúc với Thần, Tiên, Ma Quỷ hoặc Thiên Ma trong hình ảnh Phật, Bồ Tát. Được nghe họ thuyết pháp, giảng dạy. Những người tin rồi làm theo hướng dẫn của họ một thời gian sẽ trở thành bất bình thường, gọi là tẩu hỏa nhập ma.
- Hoặc Ngồi một đống, rồi suy nghĩ lung tung, không Định được cái Thức. Những người này có Ngồi bao nhiêu lâu cũng không có có Trí Huệ được.
- Muốn NGỒI THIỀN đúng theo Đạo Phật là Ngồi rồi Định cái Tâm, sau đó Quán sát, tư duy một Pháp nào đó của Đạo Phật để tìm cái Lý đúng nhất.
Thí dụ ta đã nghe Đạo Phật dạy phải TÌM TÂM thì ta Tư Duy xem Tâm là gì ? ở đâu ? Tại sao cũng là sự hiểu biết mà gọi là Vọng Tâm ? Thế nào là Chân Tâm ? Hoặc TÁNH là gì ? Ở đâu ? Làm sao để Thấy ?
Những câu hỏi liên quan đến Con đường tu Phật, khai mở sự hiểu biết về Con Đường Thoát Khổ thì mới đưa ta đến kết quả thấy vướng mắc ở đâu để tháo gỡ. Cái Thấy đó gọi là Trí Huệ.
Có Tư Duy thì mới mở được sự hiểu biết, do đó Kinh ĐẠI BÁT NIẾT BÀN dạy : “Dù có người trong vô lượng vô số kiếp chuyên tâm thính pháp. Nhưng nếu không Tư Duy thì trọn không thể được Vô Thượng Bồ Đề”. Vô Thượng Bồ Đề là Giải Thoát rốt ráo.
Có rất nhiều Pháp, nhiều lời Phật, Tổ, nói về Con Đường Tu hành, nếu ta không hiểu thì làm sao đưa vào áp dụng cho thành công ?
Đến đây ta sẽ thấy sự khác biệt của người tu Phật theo Nhất Thừa theo đúng Chánh Pháp và người tu Phật theo Nhị Thừa, là những người hiểu sai về Phật và Đạo Phật.
Người tu theo Nhất Thừa sẽ theo hướng dẫn của Chư vị đi trước để Quán Sát, Tư Duy, để biết điều gì ràng buộc, biết cách để tháo gỡ, rồi thực hành, gọi là Tư Độ. Người theo hàng Nhị Thừa thì không cần Tư Duy, chỉ nghe nói “Phật có quyền năng cứu độ Tam Thiên Đại Thiên thế giới” thì không cần hiểu thế giới đó là ở đâu ? Phật cứu độ cách nào ? chỉ nhang khói để Cầu xin Phật, Bồ Tát Cứu Độ ! Trong khi đó, PHẬT chỉ có nghĩa là người đã được Giải Thoát khỏi những nỗi Khổ. Mỗi người phải tự hành trì để cởi trói cho bản thân, không ai Giải Thoát giùm cho ai được. Phật Thích Ca cũng phải tự hành trì để Giải Thoát. Ngài chỉ “Độ” cho bá tánh bằng cách để lại Giáo Pháp, tức là hướng dẫn lý thuyết và thực hành cho những ai muốn Giải Thoát như Chư Phật và Chư Vị Giác Ngộ. Danh xưng Phật chỉ để nói về người đã Giải Thoát cho bản thân hết Khổ, không phải là Thần Linh, nên không có quyền năng để cứu Độ cho ai. Đạo Phật dạy Tự Độ, không có Độ Tha. Muốn được “cứu độ” thì phải học hỏi Giáo pháp rồi đích thân hành trì. Phải hiểu Lý Nhân Quả để hiểu rằng sở dĩ con người phải Khổ là vì chấp lấy cái Thân giả tạm là Mình, rồi làm nhiều điều ác để phục vụ cho nó. Vì nó mà Tham, Sân, Si, mạn, nghi, thương, ghét, đố kỵ, ganh tỵ… Muốn Thoát Khổ thì làm ngược lại. Phải biết Cái Thân chỉ là Thân Nghiệp, có mặt ở kiếp sống là để Trả những Nghiệp đã gieo, hoặc Nhận những Quả tốt đã làm. Do đó mà ngưng gây Nghiệp và ý thức Nhân Quả để “Cải Ác, Hành Thiện”, đi trong Bát Chánh Đạo ,thì hiện tại cũng hết Khổ mà có tái sinh cũng sẽ được hạnh phúc, an vui. Đó chính là sự Cứu Độ của Đạo Phật. Phật không có quyền năng để cứu độ cho ai. Ngải cũng phải Tự Tu, Tự Độ, Tự Giải Thoát như tất cả mọi người.
Tiếc thay từ mấy ngàn năm qua những Tà Sư do bản thân đã hiểu sai hay vì lợi ích của bản thân và môn phái, nên đã truyền bá Đạo Phật một cách sai lạc. Thay vì tu học theo những lời Chư Tổ để lại trong Kinh sách để Tự Độ, tự Giải Thoát thì họ xứng tán, tôn vinh Phật “như một vị Thần Linh tối cao, có quyền năng cứu độ, ban ơn, giáng phúc, cứu khổn, phò nguy rồi hướng dẫn cho Phật Tử cúng bái để Cầu Xin Phật cứu độ. Sống thì Cầu An, Chết thì Cầu Siêu” mà ta thấy hầu hết các Chùa chiền đang hướng dẫn cho Phật Tử, để họ làm trung gian chuyển lời cầu xin của bá tánh đến Phật. rồi hưởng dụng sự cúng dường cũng như tôn trọng của mọi người ! Điều đó hoàn toàn không có trong lời dạy của Phật và Chư Tổ. Vì vậy có Thượng Tọa (Thích Nhật Từ) và một số Sư khác, cực lực bài bác Kinh ĐẠI THỪA, cho đó là Ngụy Kinh, không phải lời của Phật Thích Ca ! Sự chống đối đó chứng minh cho chúng ta thấy, các vị không biết thế nào là Phật, cũng như mục đích Tu Phật là để “Thành Phật”, nên nghĩ rằng chỉ có Phật Thích Ca, A Di Đà và Di Lặc là Phật. mà quên rằng Đức Thích Ca đã Thọ ký cho “Tất cả chúng sinh là Phật sẽ thành”. Do vậy, có đến Tam Thế Phật, mà Chư Tổ là Phật đương thời lúc các Ngài tại thế. Như vậy, lời của Phật sau khác gì với Phật trước ? vì sự Giải Thoát là bình đẳng, cũng như đã là Bác Sĩ thì đồng trình độ như nhau, chỉ hơn thua nhau ở kinh nghiệm mà thôi.
Phật Thích Ca dạy : “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng” và Ngài cũng đã chứng minh rằng mình không có Thần Thông hay phép mầu để cứu độ cho ai. Ngay thời Phật tại thế, dòng họ Thích đánh nhau với dòng họ khác, làm chết cả mấy trăm người, Phật cũng đâu có can thiệp được. Năm 2016, ngay tại Népal là quê hương của Phật, những trận động đất kinh hoàng đã cướp đi sinh mạng của cả 9.000 con người, và làm sụp đổ hàng vạn Chùa, Tháp, nếu Phật linh ứng, cứu độ cho bá tánh được, thì Phật đâu có để điều đó diễn ra ? Khi Phiến quân Pakistan phá hủy những pho tượng Phật hay nhiều Chùa bị cháy, bị cuốn xuống sông, Phật cũng đâu có cứu được ? Chính Phật cũng bị ngộ độc thực phẩm của Thuần Đà cúng dường để nhập Niết Bàn. Nếu Phật có thần thông, phép mầu hẳn biết trước để đề phòng hay tự cứu, và trường sinh bất tử rồi. Điều đó chứng tỏ lời Phật không hư vọng. Lời nói và thực hành giống nhau. Không có chống trái nhau. Đã “có tướng” thì phải chấp nhận quy luật vũ trụ : “Thành, Trụ, Hoại, Không” hay “Sinh, Lão, Bệnh Tử”. Tu Phật là để học cách hiểu biết về Các Pháp rồi vận dụng để tiếp tục sống chung với nó mà không còn bị nó vùi dập, gọi là “Thoát Pháp”.
Đó là những thực tế mà người Phật Tử cần hiểu cho đúng để không bị tà sư lợi dụng. Từ bao đời nay, phải chăng họ ca tụng Phật là Thần Linh, có quyền phép vô song. Bá tánh muốn xin gì thì cứ hương đăng trà quả đến Chùa để cầu xin để vận động tiền bạc, công sức của bá tánh rồi dựng lên những ngôi Chùa to lớn, những Tượng Phật không lồ để họ ở đó chăm lo việc thờ cúng và bá tánh có nhiệm vụ phải cung dưỡng cho họ ? Nhưng chính họ không tự thấy mình đã mâu thuẫn, vì nếu Phật thần thông quảng đại và cầu gì được nấy sao khi cần Cất Chùa, cần vật thực để nuôi sống, vật dụng để sử dụng, không nhờ Phật hóa phép cho, lại phải vận động bá tánh ? Khi các Sư bệnh sao không cầu xin Phật mà lại đi Bệnh viện để nhờ các Bác sĩ chữa trị ? Vậy sao lại xúi bá tánh cầu xin Phật độ cho khỏe mạnh, bình an, không bị bệnh hoạn, độ cho tai qua nạn khỏi ?
Rốt cuộc là họ ở giữa, vừa khai thác Phật, vừa lợi dụng bá tánh để hưởng lợi. Với bá tánh thì kêu cầu Xin Phật. Phật thì có nhiệm vụ cứu khổn phò nguy cho bá tánh !. Nếu lời cầu mà không linh ứng là lỗi tại người cầu xin chưa đủ lòng thành ! Những người gởi cốt thân nhân trong Chùa thì năm nào Chùa cũng nhắc gởi tiền để làm lễ Cầu Siêu, đến nỗi người bạn của tôi tếu táo : “Ông bà tôi chết đã mấy chục năm rồi mà năm nào Chùa cũng nhắc Cầu Siêu !. Như vậy chứng tỏ lời Cầu Siêu của mấy Sư không linh ứng. Nếu linh ứng thì lẽ ra phải Siêu rồi. Nếu năm nào cũng phải Cầu Siêu thì chừng nào mới Siêu” ?
Họ cố tình hay không biết rằng Phật không hề có quyền phép nên xui bá tánh cầu xin đủ thứ rồi họ làm trung gian chuyển đến Phật : Nào là cầu cho Quốc thái, dân an, mưa thuận, gió hòa, không còn chiến tranh, thiên tại, tật ách. Trong khi thực tế đã chứng minh : Nếu thật sự Phật có quyền phép thì con người hay đất nước Phật cần ưu tiên “cứu độ” là Ấn Độ, quê hương của Phật. Nhưng cho đến nay, Ấn Độ nhiều nơi vẫn lạc hậu, đói nghèo, tệ nạn đầy dẫy ! Sở dĩ họ quảng bá cho Phật là để quan trọng hóa việc tu hành, tự xem mình như đại diện cho Phật tự đề cao Tu sĩ, bắt bá tánh phải xem trọng Sư, Tăng. Bắt họ phải quỳ lạy, dâng cúng tiển bạc, thực phẩm, trong khi họ có Chứng Đắc thì cũng chỉ bản thân họ nhờ ! Họ cho việc tu hành là cao quý, giá trị mà phàm nhân có làm gì cũng không bằng. Tu Sĩ Minh Tuệ cũng tuyên bố : “Chỉ cần giữ Giới thôi, thì tất cả những người làm từ thiện, dù bỏ cả núi tiền ra giúp đỡ cho bao nhiêu con người cũng không bằng” ! Điều đó chưa hề thấy Kinh sách nào đề cập đến !
Tất cả họ đều quên rằng việc tu hành chỉ là học hỏi và thực hành cách thức để Giải Thoát cho bản thân. Chính Đức Thích Ca cũng không làm gì được cho ai khác, vì “Ông tu, ông đắc, bà tu, bà đắc”. Như vậy liệu Tu Sĩ có xứng đáng nhận sự tôn trọng, cung phụng của mọi người chăng ? Chính vì ý thức như vậy nên Mã Tổ Bách Trượng ngày trước, cai quản cả một Thiền Viện mà còn “Nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực”. Một ngày không làm là một ngày không ăn. Tu sĩ thời nay đạo cao, đức trọng cỡ nào mà ngồi không chờ bá tánh cung phụng, cho rằng “Cúng dường cho mình là cho Phật, Pháp, Tăng, phước báo sẽ trả lại gấp ngàn lần” ! Hạnh của mình đã đủ thanh tịnh, Thân, Khẩu, Ý đã sạch Ba Nghiệp chưa mà dám ngồi cho bá tánh lạy mà không sợ tổn phước ?
Lỗi đó một phần cũng do Phật Tử không chịu tham khảo lời Phật, lời Chư Tổ trong Chính Kinh nên bị kích động làm Tham cầu “được độ” mà không phải khó khăn tự mình tu học ! Ngay cả Bố Thí cũng chọn đối tượng là Chùa, là Sư Tăng để “được phước báo trả lại gấp trăm, gấp ngàn lần” mà không thấy lời dạy trong Kinh DUY MA CẬT : “Nếu người thí chủ dùng tâm bình đẳng thí cho người ăn xin rất hèn hạ cũng như xem tuớng phước điền của Như Lai, không phân biệt, lòng đại bi bình đẳng, không cầu quả báo, đó là đầy đủ Pháp Thí vậy”. Chân Bố Thí là “Bố Thí Tam Luân Không”, tức là không có Kẻ Cho, Người Nhận, của Bố Thí. Đó là nói về sự Thí Xả trong nội tâm để đưa đến kết quả Giải Thoát. Không phải là cho, tặng tiền bạc, của cải bên ngoài.
PHẬT của mỗi người sẽ Độ cho mỗi người. Tức là mỗi người phải tự tìm học, rồi khơi gợi cái Phật Tánh trong Tâm, để sau đó, cái Phật Tánh sẽ hướng dẫn cho những việc cần làm đưa đến kết quả Giải Thoát, không cần phải cầu xin ai cứu độ cho, vì có cầu cũng không được. Kinh THỦ LĂNG NGHIÊM viết : “ Nầy Phú Lâu Na. Các ông khi đối với trần cảnh chỉ cần đừng khởi Vọng Niệm Phân Biệt thì Tham, Sân, Si không khởi. Ba duyên không khởi thời Sát, Đạo, Dâm ba nhơn chẳng sanh. Lúc bấy giờ anh khùng Diễn nhã đạt Đa ở trong Tâm của các ông tự hết, mà hết tức là Bồ Đề. Khi ấy chơn tâm thanh tịnh, sáng suốt khắp cả Pháp Giới của ông tự hiện bày, không cần phải cực nhọc khổ khăn tu chứng hay cầu xin nơi ai cả”. Đó chính là sự CỨU ĐỘ của Phật trong Tâm của mỗi người. Hành trì như thế mới là theo đúng Chánh Pháp của Đạo Phật vậy. ♡ -/.
Tháng 3 Năm 2025