1. Xuất dương lưu biệt
là bài thơ thất ngôn bát cú chữ Hán của Phan Bội Châu,
trong đó có cặp câu luận rất đáng chú ý. Rất tiếc,
cho đến nay nó dường như đã chưa được chú ý đúng
mức.
Phiên
âm Hán Việt :
Giang sơn tử
hĩ sinh đồ nhuế,
Hiền thánh
liêu nhiên tụng diệc si.
Dịch nghĩa:
Non sông đã chết, sống thêm nhơ nhuốc,
Bậc hiền thánh đã vắng bóng có tụng niệm cũng chỉ
đần độn, ngu si đi thôi.
(chúng tôi
dịch)
Dịch thơ :
Non sông đã chết sống thêm
nhục,
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài.
(Tôn Quang Phiệt dịch)
Bài
viết này góp một tiếng nói trong việc giải mã cặp
câu luận trên, ngõ hầu tiếp cận chân lí.
2. Trước tiên, cách dịch câu thơ thử hai của cặp câu
luận có những điều khiến người đọc ngày nay vốn khá
xa lạ với chữ Hán rất dễ ngộ nhận, khiến người đọc
ngày nay không thấy rõ tinh thần phủ định quyết liệt
nền cựu học mà hạt nhân cơ bản là Nho giáo của cụ
Phan. Đó là chữ tụng trong nguyên tác có nghĩa là chỉ
biết cắm đầu nhai lại chữ nghĩa Hiền Thánh (Khổng –
Mạnh) mà không suy xét, thì sẽ trở nên si tức kẻ cuồng
tín, tin một cách mê muội và ngu xuẩn.(Bản dịch nghĩa
dịch là đọc, bản dịch thơ dịch thành học)
3.Xuất dương lưu biệt
được sáng tác khi Phan Sào Nam từ biệt các đồng
chí ra nước ngoài tìm đường cứu nước. Bài thơ được
in trên Binh sự tạp chí – Hàng Châu, Trung Quốc, số 34 tháng 12 – 1917. Nguyên nhân
của việc xuất dương xét đến cùng là do sự khủng hoảng
đường lối cứu nước trong cục diện mưa
Âu gió Mĩ. Các thế hệ người Việt Nam thời ấy không
thiếu nhiệt huyết và dũng khí xả thân vì nước, nhưng
các cuộc khởi nghĩa của ta đều bị thực dân Pháp tắm
trong bể máu. Là một nhà nho từng qua trường văn trận
bút, từng được tôn vinh là một trong những người hay
chữ nhất nước Nam thời ấy với bài phú Bái thạch
vi huynh (Lạy đá làm anh), lại có điều kiện
được tiếp xúc với Tân thư do Nguyễn Thượng Hiền cung
cấp, với khí chất của người con của mảnh đất Hoan-
Diễn, Giải nguyên Phan Bội Châu thấy rất rõ những hạn
chế, bất cập của học thuyết Khổng Mạnh. Chính vì vậy
ông đã tuyên bố đoạn tuyệt hẳn với học thuyết này.
Đây là một sự phủ định từ bên trong và cực kì quyết
liệt. Trong bối cảnh thời đại ấy có thể giải thích
được. Vào đầu năm 1905, các bạn bè, đồng chí của
ông (Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng) từng
Cáo hủ lậu văn trong hai bài thi không theo đề trường
qui ở trường thi Bình Định trong kì tiểu thí – hạch
sơ tuyển người vào thi hương với cái tên chung Đào
Mộng Giác anh họ Đào tỉnh mộng). Phan Châu Trinh làm bài
thơ Chí thành thông thánh, Huỳnh Thúc Kháng và Trần
Quý Cáp viết chung bài phú Cầu lương ngọc tất danh
sơn đả phá lối học khoa cử đã lỗi thời, nêu bật
tình trạng nguy cấp của đất nước, đồng thời kêu gọi
giới quan lại và sĩ tử vứt bỏ lối học nhai văn nhá
chữ làm mất nước ấy đi để tìm cách cứu nước. Lối
học cử tử cốt thi đỗ làm quan, vinh thân phì gia đã
biến học thuyết Khổng Mạnh thành một thứ thiên kinh
địa nghĩa, không giúp gì cho sự nghiệp cứu nước.
Sự phủ định quyết liệt đến mức tuyệt đối hóa này,
là một quá trình nhận thức về những bất cập, ảo tưởng
và không tưởng của lí tưởng tu tề trị bình của chính
các thế hệ nhà nho nước nhà. Trước đó Nguyễn Khuyến
(1835-1909), một vị Tam nguyên nho học từng than thở:
Sách vở ích gì cho buổi ấy
– Áo xiêm lại nghĩ thẹn thân già, và từng thấy những
ông tiến sĩ thời ấy trong đó có cả mình chỉ là thứ
đồ bỏ trong bài thơ Ông nghè tháng Tám (Cũng cờ cũng
biển cũng cân đai – Cũng gọi
ông nghè có kém ai – Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng
- nét son điểm rõ mặt văn khôi
– Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ - Cái giá khoa danh
ấy mới hời – Ghế chéo lọng xanh ngồi bảnh chọe
– Tưởng rằng đồ thật hóa
đồ chơi). Tú Xương (1870- 1907) từng viết: Nào có
ra gì cái chữ Nho…truy
nguyên từ khởi thủy Nho giáo sẽ thấy được lí do của
sự phủ định triệt để, tuyệt đối này. Khổng Tử,
ông tổ của học thuyết tư tưởng chính trị đạo đức
này, trong Luận ngữ đã 105 lần nhắc tới chữ “nhân”,
một trong những tư tưởng cốt tử của mình (nhân giả
ái nhân- người có nhân yêu thương con người, nhân
giả vô địch- người có nhân không ai địch nổi,
kỉ sở bất dục, vật thi ư
nhân- việc gì mình không muốn làm thì đừng bắt người
khác phải làm…), nhưng cuối cùng cũng phải ngao ngán mà
thốt lên rằng: ngô vị kiến hiếu
đức như hiếu sắc giả giã
(ta chưa từng thấy ai hiếu đức như hiếu sắc vậy,
rồi chữ nhân rất quan trọng, nhưng ta chỉ
thấy người dẫm lên lửa mà
chết chứ chưa từng thấy ai dẫm lên chữ
nhân mà chết). Sự xuống dốc, mất giá và phá
sản của hệ tư tưởng nhà nho trên thực tiễn của lịch
sử tư tưởng và xã hội Việt Nam trước sự bành trướng,
xâm lược và đắc thắng của thực dân Pháp đã biến
mẫu hình nhân cách văn hóa nhà nho và hệ tư tưởng quan
lại thành một bi hài kịch lớn, mà những người muốn
từ bỏ Nho giáo lại chính là những người được đào
luyện từ cửa Khổng sân Trình. Thật đúng là trong chăn
mới biết chăn có rận. Về cuối đời Ông già bến
Ngự có điều chỉnh quan điểm của mình với Nho giáo
và nền cựu học.Trong Đề từ
cho cuốn Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh, ngày
1 tháng 3 năm 1931, ở Huế với bút danh Hãn Mạn Tử, cụ
Phan viết:
Sử nước ta từ
thời Bắc thuộc trở về trước, vẫn không văn tự
đặc biệt, đến đời Nhậm Diên, Tích Quang và
Sĩ Vương mới đem văn tự Trung Quốc truyền vào, trải
hơn hai nghìn năm. Hán văn đã thành hẳn một thứ
quốc văn. Nhà truyền người
đọc, tai thuộc, miệng làu, mà
những tiếng khẩu đầu thường dùng như tu thân,
tề gia, nhân tình, quốc tục.v...v... tất cả
những danh từ thành ngữ mà
nhà cựu học cần dùng, rặt là
Hán văn.
Từ thế kỉ thứ
XIX sắp xuống, Âu học truyền vào, nước ta cũng bắt
đầu có chữ quốc ngữ, tuy những tiếng thổ
âm tục ngữ phần nhiều không cần dùng Hán văn, nhưng
muốn nghiên cứu học mới phiên dịch sách ngoài, thì
những danh từ thành ngữ: trừu tượng, cụ
thể, mục đích, phương châm... mà
nhà tân học cần dùng, hết thảy phải lấy
ở Hán văn.
Góp lại hai lẽ như
trên kia, thì đâu bảo rằng: Quốc văn với Hán văn,
tất phải đun nấu trong một lò, dệt thêu chung một
khổ, cũng không phải là
quá đáng ! Hiện sách giáo khoa quốc ngữ, với các
báo chí tùng thư trên vũ đài Quốc văn ngày nay, hoạ
sắt vẽ chì, Hán văn vẫn chiếm một bộ
phận lớn, mà tựu trung chủng loại rất phức tạp,
ý nghĩa rất hồn hàm, nhất là
những danh từ thành ngữ thuộc về
các khoa học mới. Chữ xưa mà
nghĩa nay, văn thường mà ý lạ, nếu không ai cắt nghĩa
cho tinh tường, giải ý cho minh bạch, mà
chỉ trông ở mẫu tự, y dạng
đặt tên, quen mồn đọc suốt,
được lời mất nghĩa, sao tránh khỏi cá
tệ nghe chữ “ lộng chương”
mà bảo “chương” là con chương,
đọc chữ “ trừu tượng”mà
bảo “tượng” là con tượng, cái khốn nạn vì
không hiểu Hán văn đó, làm hại cho học giới tương lai
chẳng đau đớn lắm sao?
Kìa nước Nhật là một nước văn minh mới
ở Đông phương, mà
Quốc văn của họ vẫn dùng Hán văn nhiều hơn Hoà
văn, trong mười phần thì Hán văn thườmg
đến bảy tám. Các nhà học vấn của họ
rủ nhau biên tập những bản Từ
thư như: Hán văn đại từ điển, Hoà
Hán từ nguyên, Hán Hoà
văn hợp bích, vv...tập trước bộ
sau, chật nhà đầy phố, ấy người Nhật Bản tuy không
theo lối “thi vân tử viết”, mà
thế lực Hán văn vẫn bành trướng hơn Hoà
văn. Vậy mới biết giáo dục cơ
quan, và công dụng văn tự, tất phải cập nhau mà
cùng lên.
Đau đớn thay ! Quốc văn nước ta không thể
nào bỏ được Hán văn, mà
cớ sao các nhà trứ
tác, chưa ai lưu tâm đến những bộ
từ điển, từ nguyên, tâm thành ra Hán Việt hợp bích,
để khiến người ta nhân Quốc văn mà
hiểu thêm Hán văn, hiểu Hán văn mà
thêm hay Quốc văn? (1)
Đoạn tuyệt với Nho giáo, đương thời là một việc động trời
ở một đất nước có truyền thống Nho học hàng nghìn
năm, không khác gì lời tuyên bố Chúa đã chết ở phương
Tây. Tuy nhiên, hôm nay với độ lùi của lịch sử cần
thiết, cần khách quan, khoa học, công tâm, công bằng trong
ứng xử với Nho giáo; cũng có nghĩa phải bàn lại lời
khai tử Nho giáo của cụ Phan. Tuy tuyên bố đoạn tuyệt
với Nho giáo, với nền cựu học, nhưng cụ Phan vẫn không
vất bỏ được nó, chứng cớ là: các trước thuật và
sáng tác của cụ chủ yếu được viết bằng chữ Hán,
có người đã gọi là Hiện tượng lại giống
(chữ dùng của Trần Đình Hượu). Sự nghiệp cách mạng
của cụ Phan như chính cụ thừa nhận trong niên biểu của
mình : Một trăm lần thất bại, không một lần thành
công. Có nhiều nguyên nhân khiến sự nghiệp cứu nước
của cụ Phan và các đồng chí của cụ bất thành, nhưng
không thể không kể đến nguyên nhân từ lối ứng xử
cực đoan đoạn tuyệt hẳn với Nho giáo. Lối ứng xử
này xa lạ với căn cốt thâm hậu của văn hoá Việt Nam,
một nền văn hoá ưa sự mềm dẻo, hoà đồng, bao dung và
khoan thứ, có mới không nới cũ, rất gần nếu
không muốn nói chính là lối ứng xử biện chứng, điều
mà ngày nay ta cho là hòa nhập mà không hòa tan, không đánh
mất bản sắc của chính mình.
Lịch
sử chống ngoại xâm của ông cha ta cho thấy : Những
thắng lợi vĩ đại nhất đều gắn liền với
ứng xử văn hoá thiên về tạng thuỷ
(Cao Xuân Huy). Thời Trần, ba lần chiến thắng Nguyên Mông,
bởi đó là thời tam giáo
đồng nguyên (Nho, Phật, Lão hoà đồng). Thời hiện
đại, chúng ta đánh thắng hai
đế quốc to là Pháp và Mĩ,
cũng có nguyên nhân từ sự bao dung, tích hợp văn hoá. (Nỗi
đau này không của riêng ai- Của chung nhân loại chiến
công này- Tố Hữu). Bản lĩnh văn hoá một dân tộc,
một thời đại thường được kết tinh trong những nhân
cách văn hoá tiêu biểu. Thời đại Hồ Chí Minh bản lĩnh
văn hoá Việt Nam được kết tinh trong nhân cách văn hoá
Hồ Chí Minh. Ngay từ năm 1923, một nghệ sĩ – nhà báo
Xô-viết khi gặp Nguyễn Ái Quốc ở Matcơva đã nhận xét:
Ở Nguyễn ái Quốc toả ra một nền văn hóa không phải
của phương Đông, cũng không phải của phương Tây. Đó
là nền văn hoá của tương lai. Trong bản dịch Những
mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch
ra tiếng Trung Quốc xuất bản năm 1949 có đoạn :
Có người hỏi ông Nguyễn :
Ông là người thế nào? Theo chủ
nghĩa cộng sản hay theo chủ
nghĩa Tôn Dật Tiên? Ông Nguyễn trả
lời :Học thuyết Khổng Tử
có cái hay là sự
tu dưỡng đạo đức; tôn giáo Giê-xu có
cái hay là lòng bác ái.
Chủ
nghĩa Mác có cái hay là
phương pháp biện chứng. Chủ
nghĩa Tôn Dật Tiên có cái hay là
chính sách của nó phù
hợp với điều kiện nước chúng tôi.
Tôi
cố gắng làm người học trò
nhỏ của họ. Tôi chính là
tôi của ngày trước, một người yêu nước (2 ).
Giữa nhà nho nổi tiếng hay chữ nhất nước Nam, bậc anh
hùng, vị thiên sứ, đấng xả
thân vì độc lập, được hai mươi triệu con người trong
vòng nô lệ tôn sùng (Nguyễn ái Quốc – Trò lố
hay là Va-ren và Phan Bội Châu) và Hồ Chí Minh, anh hùng
giải phóng dân tộc kiệt xuất, danh nhân văn hoá thế giới,
có một sự khác nhau trong hành xử văn hoá với học thuyết
Khổng Tử, dẫn đến những tác động lịch sử hết sức
khác nhau trong sự nghiệp cứu nước.
3.Từ cặp câu luận trong Xuất dương lưu biệt
của Phan Bội Châu, có thể rút ra kết luận này chăng:
tầm văn hóa, bản lĩnh văn hóa, hành xử văn hoá là một
trong những điều kiện tối quan trọng, dẫn đến thất
bại hay thành công trong cuộc đời, sự nghiệp của một
cá nhân, một dân tộc, một đất nước, một thời đại?
CHÚ THÍCH:
Từ
điển Hán Việt- Đào Duy Anh, NXB Văn hoá thông tin,
2003 (đề từ ).
Bản sắc văn
hoá Việt Nam- Phan Ngọc, NXB VHTT, Hà Nội, 1998, trang 452-453.
VVM.10.03.2025.
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si.
Dịch nghĩa:
Non sông đã chết, sống thêm nhơ nhuốc,
Bậc hiền thánh đã vắng bóng có tụng niệm cũng chỉ
đần độn, ngu si đi thôi.
(chúng tôi
dịch)
Dịch thơ :
Non sông đã chết sống thêm
nhục,
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài.
(Tôn Quang Phiệt dịch)
Bài viết này góp một tiếng nói trong việc giải mã cặp câu luận trên, ngõ hầu tiếp cận chân lí.
2. Trước tiên, cách dịch câu thơ thử hai của cặp câu luận có những điều khiến người đọc ngày nay vốn khá xa lạ với chữ Hán rất dễ ngộ nhận, khiến người đọc ngày nay không thấy rõ tinh thần phủ định quyết liệt nền cựu học mà hạt nhân cơ bản là Nho giáo của cụ Phan. Đó là chữ tụng trong nguyên tác có nghĩa là chỉ biết cắm đầu nhai lại chữ nghĩa Hiền Thánh (Khổng – Mạnh) mà không suy xét, thì sẽ trở nên si tức kẻ cuồng tín, tin một cách mê muội và ngu xuẩn.(Bản dịch nghĩa dịch là đọc, bản dịch thơ dịch thành học)
3.Xuất dương lưu biệt được sáng tác khi Phan Sào Nam từ biệt các đồng chí ra nước ngoài tìm đường cứu nước. Bài thơ được in trên Binh sự tạp chí – Hàng Châu, Trung Quốc, số 34 tháng 12 – 1917. Nguyên nhân của việc xuất dương xét đến cùng là do sự khủng hoảng đường lối cứu nước trong cục diện mưa Âu gió Mĩ. Các thế hệ người Việt Nam thời ấy không thiếu nhiệt huyết và dũng khí xả thân vì nước, nhưng các cuộc khởi nghĩa của ta đều bị thực dân Pháp tắm trong bể máu. Là một nhà nho từng qua trường văn trận bút, từng được tôn vinh là một trong những người hay chữ nhất nước Nam thời ấy với bài phú Bái thạch vi huynh (Lạy đá làm anh), lại có điều kiện được tiếp xúc với Tân thư do Nguyễn Thượng Hiền cung cấp, với khí chất của người con của mảnh đất Hoan- Diễn, Giải nguyên Phan Bội Châu thấy rất rõ những hạn chế, bất cập của học thuyết Khổng Mạnh. Chính vì vậy ông đã tuyên bố đoạn tuyệt hẳn với học thuyết này. Đây là một sự phủ định từ bên trong và cực kì quyết liệt. Trong bối cảnh thời đại ấy có thể giải thích được. Vào đầu năm 1905, các bạn bè, đồng chí của ông (Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng) từng Cáo hủ lậu văn trong hai bài thi không theo đề trường qui ở trường thi Bình Định trong kì tiểu thí – hạch sơ tuyển người vào thi hương với cái tên chung Đào Mộng Giác anh họ Đào tỉnh mộng). Phan Châu Trinh làm bài thơ Chí thành thông thánh, Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp viết chung bài phú Cầu lương ngọc tất danh sơn đả phá lối học khoa cử đã lỗi thời, nêu bật tình trạng nguy cấp của đất nước, đồng thời kêu gọi giới quan lại và sĩ tử vứt bỏ lối học nhai văn nhá chữ làm mất nước ấy đi để tìm cách cứu nước. Lối học cử tử cốt thi đỗ làm quan, vinh thân phì gia đã biến học thuyết Khổng Mạnh thành một thứ thiên kinh địa nghĩa, không giúp gì cho sự nghiệp cứu nước. Sự phủ định quyết liệt đến mức tuyệt đối hóa này, là một quá trình nhận thức về những bất cập, ảo tưởng và không tưởng của lí tưởng tu tề trị bình của chính các thế hệ nhà nho nước nhà. Trước đó Nguyễn Khuyến (1835-1909), một vị Tam nguyên nho học từng than thở: Sách vở ích gì cho buổi ấy – Áo xiêm lại nghĩ thẹn thân già, và từng thấy những ông tiến sĩ thời ấy trong đó có cả mình chỉ là thứ đồ bỏ trong bài thơ Ông nghè tháng Tám (Cũng cờ cũng biển cũng cân đai – Cũng gọi ông nghè có kém ai – Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng - nét son điểm rõ mặt văn khôi – Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ - Cái giá khoa danh ấy mới hời – Ghế chéo lọng xanh ngồi bảnh chọe – Tưởng rằng đồ thật hóa đồ chơi). Tú Xương (1870- 1907) từng viết: Nào có ra gì cái chữ Nho…truy nguyên từ khởi thủy Nho giáo sẽ thấy được lí do của sự phủ định triệt để, tuyệt đối này. Khổng Tử, ông tổ của học thuyết tư tưởng chính trị đạo đức này, trong Luận ngữ đã 105 lần nhắc tới chữ “nhân”, một trong những tư tưởng cốt tử của mình (nhân giả ái nhân- người có nhân yêu thương con người, nhân giả vô địch- người có nhân không ai địch nổi, kỉ sở bất dục, vật thi ư nhân- việc gì mình không muốn làm thì đừng bắt người khác phải làm…), nhưng cuối cùng cũng phải ngao ngán mà thốt lên rằng: ngô vị kiến hiếu đức như hiếu sắc giả giã (ta chưa từng thấy ai hiếu đức như hiếu sắc vậy, rồi chữ nhân rất quan trọng, nhưng ta chỉ thấy người dẫm lên lửa mà chết chứ chưa từng thấy ai dẫm lên chữ nhân mà chết). Sự xuống dốc, mất giá và phá sản của hệ tư tưởng nhà nho trên thực tiễn của lịch sử tư tưởng và xã hội Việt Nam trước sự bành trướng, xâm lược và đắc thắng của thực dân Pháp đã biến mẫu hình nhân cách văn hóa nhà nho và hệ tư tưởng quan lại thành một bi hài kịch lớn, mà những người muốn từ bỏ Nho giáo lại chính là những người được đào luyện từ cửa Khổng sân Trình. Thật đúng là trong chăn mới biết chăn có rận. Về cuối đời Ông già bến Ngự có điều chỉnh quan điểm của mình với Nho giáo và nền cựu học.Trong Đề từ cho cuốn Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh, ngày 1 tháng 3 năm 1931, ở Huế với bút danh Hãn Mạn Tử, cụ Phan viết:
Sử nước ta từ thời Bắc thuộc trở về trước, vẫn không văn tự đặc biệt, đến đời Nhậm Diên, Tích Quang và Sĩ Vương mới đem văn tự Trung Quốc truyền vào, trải hơn hai nghìn năm. Hán văn đã thành hẳn một thứ quốc văn. Nhà truyền người đọc, tai thuộc, miệng làu, mà những tiếng khẩu đầu thường dùng như tu thân, tề gia, nhân tình, quốc tục.v...v... tất cả những danh từ thành ngữ mà nhà cựu học cần dùng, rặt là Hán văn.
Từ thế kỉ thứ XIX sắp xuống, Âu học truyền vào, nước ta cũng bắt đầu có chữ quốc ngữ, tuy những tiếng thổ âm tục ngữ phần nhiều không cần dùng Hán văn, nhưng muốn nghiên cứu học mới phiên dịch sách ngoài, thì những danh từ thành ngữ: trừu tượng, cụ thể, mục đích, phương châm... mà nhà tân học cần dùng, hết thảy phải lấy ở Hán văn.
Góp lại hai lẽ như trên kia, thì đâu bảo rằng: Quốc văn với Hán văn, tất phải đun nấu trong một lò, dệt thêu chung một khổ, cũng không phải là quá đáng ! Hiện sách giáo khoa quốc ngữ, với các báo chí tùng thư trên vũ đài Quốc văn ngày nay, hoạ sắt vẽ chì, Hán văn vẫn chiếm một bộ phận lớn, mà tựu trung chủng loại rất phức tạp, ý nghĩa rất hồn hàm, nhất là những danh từ thành ngữ thuộc về các khoa học mới. Chữ xưa mà nghĩa nay, văn thường mà ý lạ, nếu không ai cắt nghĩa cho tinh tường, giải ý cho minh bạch, mà chỉ trông ở mẫu tự, y dạng đặt tên, quen mồn đọc suốt, được lời mất nghĩa, sao tránh khỏi cá tệ nghe chữ “ lộng chương” mà bảo “chương” là con chương, đọc chữ “ trừu tượng”mà bảo “tượng” là con tượng, cái khốn nạn vì không hiểu Hán văn đó, làm hại cho học giới tương lai chẳng đau đớn lắm sao?
Kìa nước Nhật là một nước văn minh mới ở Đông phương, mà Quốc văn của họ vẫn dùng Hán văn nhiều hơn Hoà văn, trong mười phần thì Hán văn thườmg đến bảy tám. Các nhà học vấn của họ rủ nhau biên tập những bản Từ thư như: Hán văn đại từ điển, Hoà Hán từ nguyên, Hán Hoà văn hợp bích, vv...tập trước bộ sau, chật nhà đầy phố, ấy người Nhật Bản tuy không theo lối “thi vân tử viết”, mà thế lực Hán văn vẫn bành trướng hơn Hoà văn. Vậy mới biết giáo dục cơ quan, và công dụng văn tự, tất phải cập nhau mà cùng lên.
Đau đớn thay ! Quốc văn nước ta không thể nào bỏ được Hán văn, mà cớ sao các nhà trứ tác, chưa ai lưu tâm đến những bộ từ điển, từ nguyên, tâm thành ra Hán Việt hợp bích, để khiến người ta nhân Quốc văn mà hiểu thêm Hán văn, hiểu Hán văn mà thêm hay Quốc văn? (1)
Đoạn tuyệt với Nho giáo, đương thời là một việc động trời ở một đất nước có truyền thống Nho học hàng nghìn năm, không khác gì lời tuyên bố Chúa đã chết ở phương Tây. Tuy nhiên, hôm nay với độ lùi của lịch sử cần thiết, cần khách quan, khoa học, công tâm, công bằng trong ứng xử với Nho giáo; cũng có nghĩa phải bàn lại lời khai tử Nho giáo của cụ Phan. Tuy tuyên bố đoạn tuyệt với Nho giáo, với nền cựu học, nhưng cụ Phan vẫn không vất bỏ được nó, chứng cớ là: các trước thuật và sáng tác của cụ chủ yếu được viết bằng chữ Hán, có người đã gọi là Hiện tượng lại giống (chữ dùng của Trần Đình Hượu). Sự nghiệp cách mạng của cụ Phan như chính cụ thừa nhận trong niên biểu của mình : Một trăm lần thất bại, không một lần thành công. Có nhiều nguyên nhân khiến sự nghiệp cứu nước của cụ Phan và các đồng chí của cụ bất thành, nhưng không thể không kể đến nguyên nhân từ lối ứng xử cực đoan đoạn tuyệt hẳn với Nho giáo. Lối ứng xử này xa lạ với căn cốt thâm hậu của văn hoá Việt Nam, một nền văn hoá ưa sự mềm dẻo, hoà đồng, bao dung và khoan thứ, có mới không nới cũ, rất gần nếu không muốn nói chính là lối ứng xử biện chứng, điều mà ngày nay ta cho là hòa nhập mà không hòa tan, không đánh mất bản sắc của chính mình.
Lịch sử chống ngoại xâm của ông cha ta cho thấy : Những thắng lợi vĩ đại nhất đều gắn liền với ứng xử văn hoá thiên về tạng thuỷ (Cao Xuân Huy). Thời Trần, ba lần chiến thắng Nguyên Mông, bởi đó là thời tam giáo đồng nguyên (Nho, Phật, Lão hoà đồng). Thời hiện đại, chúng ta đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mĩ, cũng có nguyên nhân từ sự bao dung, tích hợp văn hoá. (Nỗi đau này không của riêng ai- Của chung nhân loại chiến công này- Tố Hữu). Bản lĩnh văn hoá một dân tộc, một thời đại thường được kết tinh trong những nhân cách văn hoá tiêu biểu. Thời đại Hồ Chí Minh bản lĩnh văn hoá Việt Nam được kết tinh trong nhân cách văn hoá Hồ Chí Minh. Ngay từ năm 1923, một nghệ sĩ – nhà báo Xô-viết khi gặp Nguyễn Ái Quốc ở Matcơva đã nhận xét: Ở Nguyễn ái Quốc toả ra một nền văn hóa không phải của phương Đông, cũng không phải của phương Tây. Đó là nền văn hoá của tương lai. Trong bản dịch Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch ra tiếng Trung Quốc xuất bản năm 1949 có đoạn :
Có người hỏi ông Nguyễn : Ông là người thế nào? Theo chủ nghĩa cộng sản hay theo chủ nghĩa Tôn Dật Tiên? Ông Nguyễn trả lời :Học thuyết Khổng Tử có cái hay là sự tu dưỡng đạo đức; tôn giáo Giê-xu có cái hay là lòng bác ái.
Chủ nghĩa Mác có cái hay là phương pháp biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có cái hay là chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước chúng tôi.
Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của họ. Tôi chính là tôi của ngày trước, một người yêu nước (2 ).
Giữa nhà nho nổi tiếng hay chữ nhất nước Nam, bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân vì độc lập, được hai mươi triệu con người trong vòng nô lệ tôn sùng (Nguyễn ái Quốc – Trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu) và Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng dân tộc kiệt xuất, danh nhân văn hoá thế giới, có một sự khác nhau trong hành xử văn hoá với học thuyết Khổng Tử, dẫn đến những tác động lịch sử hết sức khác nhau trong sự nghiệp cứu nước.
3.Từ cặp câu luận trong Xuất dương lưu biệt
của Phan Bội Châu, có thể rút ra kết luận này chăng:
tầm văn hóa, bản lĩnh văn hóa, hành xử văn hoá là một
trong những điều kiện tối quan trọng, dẫn đến thất
bại hay thành công trong cuộc đời, sự nghiệp của một
cá nhân, một dân tộc, một đất nước, một thời đại?
CHÚ THÍCH:
Từ
điển Hán Việt- Đào Duy Anh, NXB Văn hoá thông tin,
2003 (đề từ ).
Bản sắc văn
hoá Việt Nam- Phan Ngọc, NXB VHTT, Hà Nội, 1998, trang 452-453.