Việt Văn Mới
Việt Văn Mới
             



NGÀY XUÂN TÔI HÁT
NÊN BÀI TÌNH CA

  


I. TÌNH CA CỦA PHẠM DUY

Phạm Duy sinh ngày 5 tháng 10 năm 1921 tạ thế ngày 27 tháng 1 năm 2013)

Tên thật Phạm Duy Cẩn - là một nhạc sĩ, ca sĩ, nhà nghiên cứu nhạc người Việt Nam. Ông được coi như một trong những nhạc sĩ lớn nhất của nền Tân nhạc Việt Nam với lượng sáng tác đồ sộ (trên 1000 bài) cũng như đa dạng về thể loại, trong đó có rất nhiều ca khúc trở nên kinh điển và quen thuộc với người Việt. Nhạc của ông thường kết hợp những yếu tố của âm nhạc cổ truyền Việt Nam với các trào lưu, phong cách mới, tạo nên nhiều tác phẩm có tính đột phá, giàu ảnh hưởng đối với các nhạc sĩ thuộc nhiều thế hệ. Ngoài sáng tác và biểu diễn, ông còn có những công trình khảo cứu về âm nhạc Việt Nam có giá trị.

Phạm Duy Cẩn sinh tại Phố Hàng Cót, Hà Nội, trong một gia đình văn nghiệp. Cha ông là Phạm Duy Tốn thường được coi như là nhà văn xã hội đầu tiên của nền Văn học Mới đầu thế kỷ 20. Anh của ông là Phạm Duy Khiêm, giáo sư thạc sĩ, văn sĩ Pháp văn, tác giả những cuốn Légendes des terres sereines.

Năm 1941, ông thành ca sĩ hát tân nhạc trong gánh hát cải lương Đức Huy – Charlot Miều (ca sĩ Phạm Duy Cẩn –sau là nhạc sĩ Phạm Duy). Thời kỳ hát rong, Phạm Duy được gặp gỡ nhiều tên tuổi lớn như thi sĩ Lưu Trọng Lư, nhạc sĩ Lê Thương, Lê Xuân Ái, Văn Đông... và nhạc sĩ Văn Cao, người sau này trở thành bạn thân thiết trong đời sống lẫn trong âm nhạc. Thời kỳ này, ngoài việc cùng Văn Cao la cà các chốn ăn chơi, thì ông cũng giúp đỡ cho Văn Cao trong việc soạn nhạc, cùng Văn Cao sáng tác các tác phẩm Bến Xuân, Suối Mơ.

Năm 1942, ông khởi nghiệp sáng tác nhạc với tác phẩm hoàn chỉnh đầu tay là "Cô hái mơ", phổ từ thơ Nguyễn Bính, trong thời kỳ phong trào Tân nhạc bắt đầu nở rộ.

Năm 1945, xảy ra nạn đói, Phạm Duy rời nhà cũ đi lang thang nhiều nơi. Ngày 9 tháng 3 năm 1945, ngày Nhật đảo chính Pháp, ông cùng hai kép trong gánh hát Đức Huy bị bắt vào tù khi đang lưu diễn ở Cà Mau. Cũng năm này ông theo kháng chiến, trở thành cán bộ văn nghệ của Việt Minh và là một trong những nhạc sĩ thành công nhất lúc đó.

Năm 1949 ông lập gia đình với ca sĩ Thái Hằng tại chiến khu Việt Bắc, người chủ trì của hôn lễ này là tướng Nguyễn Sơn. Ca sĩ Thái Hằng (1927-1999), tên thật là Phạm Thị Quang Thái, sinh tại Hà Nội. Bà xuất thân trong một gia đình âm nhạc, cha của bà là ông Phạm Đình Phụng (Nghệ danh này do nhà thơ Thế Lữ đặt).

Nữ danh ca thời tiền chiến Thái Hằng là vợ của nhạc sĩ Phạm Duy và là thân mẫu của các ca sĩ Duy Quang, Thái Hiền, Thái Thảo và nhạc sĩ Duy Cường. Tên tuổi nữ danh ca Thái Hằng gắn bó với Phạm Duy và ban hợp ca Thăng Long thành một gia đình nghệ sĩ hàng đầu đã có những đóng góp lớn lao cho âm nhạc Việt Nam.

Bài hát Tình ca của nhạc sĩ Phạm Duy

Nói về một tình yêu thiêng liêng và cao vời vợi là tình yêu non sông đất nước. Ngay từ câu mở đầu, ông đã khẳng định: “Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời…” (10 nốt nhạc được VITEX mua giá 100 triệu đồng –để làm nhạc hiệu)

Phạm Duy sáng tác Tình ca năm 1952. Giai điệu và ca từ của nó trầm hùng, mênh mông, sâu lắng, thiết tha và dằng dặt thể hiện cái hào khí của Con Rồng, Cháu Tiên. Ở một góc độ nào đó, Tình ca là sự khởi đầu, là phác thảo cho trường ca Con đường cái quan mà Phạm Duy miệt mài sáng tác từ năm 1954 tới 1960. Có thể nói, Tình ca là một trường ca thu nhỏ. Nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ khen Tình ca của Phạm Duy là bản nhạc về tình tự dân tộc hay nhất!

Phạm Duy là một nghệ sĩ đa tình “thiên hạ vô đối”. Ông là “ông hoàng tình ca” của nhạc Việt (kể cả nhạc ngoại được ông đặt lời Việt). Cả tình yêu đôi lứa lẫn tình yêu quê hương đều được ông đưa vào âm nhạc một cách trên cả tuyệt vời. Tình ca là một điển hình, đó là tình tự dân tộc. Có thể nói không ngoa ngữ rằng: Phạm Duy là một “phù thủy âm nhạc”, hễ ông chạm tới cái gì là nó lập tức trở thành nhạc, mà là “nhạc chất lượng cao”. Còn Trịnh Công Sơn là phù thủy về ngôn ngữ!

Tình ca trải dài theo tiếng ru à ơi vang vọng ngàn đời của người mẹ Việt Nam. Những khoảnh khắc lịch sử, những địa danh tiêu biểu của đất nước xuất hiện trong bài hát. Tình ca có 3 lời, và cả 3 đều được khéo léo kết bằng 4 câu thơ lục bát – thơ của dân tộc Việt.

Đặc biệt bài hát được khép lại với 4 câu rất đẹp, rất thơ hòa quyện giữa hai loại nhịp điệu nhạc và thơ giúp người nghe kéo dài cảm xúc phơi phới, yêu đời:

  Vì yêu, yêu nước, yêu nòi
       Ngày Xuân tôi hát nên bài Tình ca
       Ruộng xanh tươi tốt quê nhà
       Lòng tôi đã nở như là đóa hoa…

Ngoại trừ ai đó muốn chẻ chữ và tách một vài câu ra khỏi toàn bộ ngữ cảnh của nó để mà suy diễn chủ quan, toàn bộ bài hát Tình ca chỉ thể hiện tình yêu đất nước của người dân Việt, không sa đà vào khái niệm chính kiến, cũng chẳng đả động gì tới chuyện hận thù của một dân tộc đã trải qua biết bao sóng gió, thăng trầm tới mức độ bi kịch lịch sử. Phạm Duy đã nói giùm người Việt những tình tự với quê hương và người Việt nào cũng có thể an nhiên tự tại mà hát nó.

Năm 2006, có một giai thoại khá thú vị là công ty VITEX đã xin mua bản quyền mười nốt nhạc trong bài hát “Tình ca” với giá 100 triệu đồng để làm nhạc hiệu của công ti! Đó là: sol–sol–do–si(b)–sol–mi(b)–fa–sol–mi(b)–do.

Tình ca – Phạm Duy


1/ Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, người ơi/ Mẹ hiền ru những câu xa vời
À à ơi! Tiếng ru muôn đời/ Tiếng nước tôi! Bốn ngàn năm ròng rã buồn vui
Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi, nước ơi/ Tiếng nước tôi! Tiếng mẹ sinh từ lúc nằm nôi/ Thoắt nghìn năm thành tiếng lòng tôi, nước ơi.
Tôi yêu tiếng ngang trời/ Những câu hò giận hờn khôn nguôi
Nhớ nhung hoài mảnh tình xa xôi Vững tin vào mộng đẹp ngày mai
Một yêu câu hát Truyện Kiều/ Lẳng lơ như tiếng sáo diều làng ta
Và yêu cô gái bên nhà/ Miệng xinh ăn nói mặn mà có duyên…

2/Tôi yêu đất nước tôi, nằm phơi phới bên bờ biển xanh
Ruộng đồng vun sóng ra Thái Bình/ Nhìn trùng dương hát câu no lành
Đất nước tôi! Dãy Trường Sơn ẩn bóng hoàng hôn/ Đất miền Tây chờ sức người vươn, đất ơi
Đất nước tôi! Núi rừng cao miền Bắc lửa thiêng/ Lúa miền Nam chờ gió mùa lên, lúa ơi.
Tôi yêu những sông trường/ Biết ái tình ở dòng sông Hương
Sống no đầy là nhờ Cửu Long/ Máu sông Hồng đỏ vì chờ mong.
Người yêu thế giới mịt mùng/ Cùng tôi xây đắp ruộng đồng Việt Nam
Làm sao chắp cánh chim ngàn/ Nhìn Trung Nam Bắc kết hàng mến nhau.

3/Tôi yêu bác nông phu, đội sương nắng bên bờ ruộng sâu
Vài ngàn năm đứng trên đất nghèo/ Mình đồng da sắt không phai mầu
Tấm áo nâu! Những mẹ quê chỉ biết cần lao/ Những trẻ quê bạn với đàn trâu, áo ơi
Tấm áo nâu! Rướn mình đi từ cõi rừng cao/ Dắt dìu nhau vào đến Cà Mau, áo ơi Tôi yêu biết bao người/ Lý, Lê, Trần… và còn ai nữa
Những anh hùng của thời xa xưa/ Những anh hùng của một ngày mai
Vì yêu, yêu nước, yêu nòi/ Ngày Xuân tôi hát nên bài tình ca
Ruộng xanh tươi tốt quê nhà/ Lòng tôi đã nở như là đóa hoa…

II . TÌNH CA CỦA HOÀNG VIỆT

Bài hát Tình ca của nhạc sĩ Hoàng Việt là tiếng lòng của đôi lứa yêu nhau phải xa cách nhau trong thời chiến chinh, loạn lạc – tình vi mô. Nó cũng nói tới lòng yêu nước và được cụ thể hóa bằng một đôi trai gái trong cảnh phải chia lìa giữa chiến tranh.

Hoàng Việt sáng tác ca khúc này vào năm 1957 sau khi nhận được thư của người vợ từ miền Nam gửi ra. Lúc đó ông đang ở miền Bắc (tập kết năm 1954). Bài hát trộn lẫn giữa chất hào hùng, khí phách với tiếng tơ lòng trầm lắng, thổn thức. Chính vì vậy mà trong những năm đầu, Tình ca không được phổ biến rộng vì có một số người ở Hà Nội đánh giá là nó bi lụy. Nhưng vàng thiệt không sợ lửa, cho tới nay, Tình ca vẫn là một bài tình ca cách mạng được yêu thích, đặc biệt là từ tuổi trung niên trở lên.

Tình ca ra đời sau một bài tình ca kháng chiến nổi tiếng khác của Hoàng Việt, đó là ca khúc Lên ngàn, được viết khoảng năm 1952-1953. Nó “thay lời muốn nói” của chính tác giả, người tham gia kháng chiến trên chiến trường, còn người vợ ở hậu phương tần tảo làm ruộng thay chồng nuôi con.

Tình ca của Hoàng Việt là một bản tình ca thời chinh chiến. Nó vượt lên những bài tình ca thời chinh chiến khác ở tính lý tưởng của người nhạc sĩ đang trực tiếp tham gia cuộc chiến vệ quốc của mình. Và vì vậy, cùng với (hoặc mượn) những cảm xúc mãnh liệt của tình yêu đôi lứa, tình nghĩa vợ chồng, nó mạnh mẽ lên án chiến tranh, chất chứa lòng hận thù và trào dâng ý chí. Bài hát có cái kết thật hào hùng, tự tin và thủy chung: “Em đi cắt lúa trên ngàn. Còn anh chiến đấu sa tràng. Kháng chiến nhất quyết thành công. Kháng chiến nhất quyết thành công. Anh về em thỏa ước… mong.”

Đúng 10 năm sau khi sáng tác Tình ca, Hoàng Việt hy sinh sau khi đã trở lại chiến trường miền Nam (mất ngày 31-12-1967) ở tuổi mới 39.

“Mỗi bài đều gắn với những bối cảnh lịch sử cụ thể, và qua từng năm, bút pháp của nhạc sĩ càng trở nên điêu luyện hơn. Cái cách mà Hoàng Việt để lại dấu ấn cho người nghe không phải là những khẩu hiệu xơ cứng, mà ngay trong bối cảnh vô cùng khó khăn của cuộc kháng chiến, người ta vẫn thấy một sự vui tươi, nhẹ nhàng đến lãng mạn trong từng ca khúc.

“Là một người con của Nam Bộ, Hoàng Việt đã không chỉ dừng lại ở việc xây dựng hình tượng âm nhạc thông qua ngôn ngữ âm nhạc dân gian Nam Bộ, mà còn rất thành công trong việc sử dụng ngôn ngữ âm nhạc mới để thể hiện những điều muốn nói. Mà Tình ca chính là một ca khúc đánh dấu bước ngoặt mới trong cuộc đời sáng tác của người nhạc sĩ tài ba này.

“Đó là vào mùa xuân năm 1957, tiết trời vẫn còn vương vấn cái lạnh của mùa đông xứ Bắc. Người nhạc sĩ Nam Bộ lúc đó đang là học viên của Trường Âm nhạc Việt Nam (13 Cao Bá Quát – Hà Nội). Cảnh xuân, dù trong chiến tranh hay hòa bình, vẫn vốn gợi cho con người nhớ về quê hương với những kỷ niệm chẳng thể phai mờ trong tiềm thức. Hoàng Việt cũng không nằm ngoài quy luật đó. Bằng trái tim đa cảm của người nhạc sĩ trẻ, nỗi niềm nhớ quê, nhớ vợ, nhớ bạn bè, người thân lúc này bùng lên trong ông mạnh mẽ hơn bao giờ hết.

“Đúng thời gian ấy, một niềm vui trong cái éo le nghịch lý đã xuất hiện. Vui là vì Hoàng Việt nhận được thư của vợ từ Sài Gòn gửi ra chứa đựng bao tình cảm riêng tư. Cái éo le, nghịch lý mà không ai ngờ tới đó là hành trình của bước thư vô cùng ngoằn ngèo, trắc trở: Từ Sài Gòn sang Pari, lòng vòng qua một số nước rồi mới tới Hà Nội. Ông nhận được thư trong tâm trạng vô cùng phấn chấn. “Ông nghĩ đến nỗi khổ của người vợ phải xa cách chồng, sống trong vòng cương tỏa, o ép của kẻ thù… Một cảm xúc mãnh liệt về tấm lòng thủy chung của những lứa đôi trước phong ba bão táp của cuộc đời, khát vọng về ngày thống nhất đoàn tụ đã bùng lên trong ông” (Nguyễn Tú Ngọc). Và, trái tim của người nhạc sĩ đã được cộng hưởng, dồn nén đến đỉnh điểm từ tình yêu quê hương đất nước với tình cảm riêng tư, để một đêm thức trắng cho ra đời bản Tình ca nổi tiếng.” (Nguyễn Đăng Nghị)

Bài hát Tình ca – Hoàng Việt


1/ Khi hát lên tiếng ca gởi về người yêu quê ta/ Ta át tiếng gió mưa thét gào cuộn dâng phong ba
Em ơi! nghe chăng lời trái tim vọng ra/ Rung trong không gian mặt biển sôi ầm vang
Qua núi biếc chập chùng xa xa/ Qua bóng mây che mờ quê ta
Tiếng ca đời đời chung thuỷ thiết tha/ Em có nghe tiếng ca chứa đựng hận thù sâu xa
Đã biến tình đôi ta thành những ánh sao toả sáng/ Vượt băng băng qua đêm tối tìm hương hoa
Bến nước Cửu Long còn đó em ơi! Bãi lúa nương dâu còn mãi muôn đời
Là còn duyên tình ta thắm trong tiếng ca không thể xoá nhoà…

2/Khi đã nghe tiếng ca của lòng người yêu phương xa/ Em hãy ngước mắt lên vui nhìn trời xanh quê ta/ Chim bay giăng giăng ngoài nắng xuân đẹp thay/ Tan cơn phong ba lòng đất yên rồi đây
Em hãy nở nụ cười tươi xinh/ Như cánh hoa xuân chào riêng anh
Nói nhau nghìn lời qua đôi mắt xanh/ Ta hát chung tiếng ca vang dội từ nghìn phương xa
Xua kẻ thù đi mau, dập tắt chiến tranh đẫm máu/ Đập tan ngay bao đau khổ và chia ly
Giữ lấy đức tin bền vững em ơi/ Giữ lấy trái tim đòi sống yêu đời
Làm một bài tình ca của đôi lứa ta dâng cả bao người.

III . LỜI KẾT

-Phạm Duy sáng tác Tình ca năm 1952. Giai điệu và ca từ của nó trầm hùng, mênh mông, sâu lắng, thiết tha và dằng dặt thể hiện cái hào khí Rồng Tiên. Ở một góc độ nào đó, Tình ca là sự khởi đầu, là phác thảo cho trường ca Con đường cái quan mà Phạm Duy miệt mài sáng tác từ năm 1954 tới 1960. Có thể nói, Tình ca là một trường ca thu nhỏ.

Phạm Duy là một nghệ sĩ đa tình “thiên hạ vô đối”. Ông là “ông hoàng tình ca” của nhạc Việt (kể cả nhạc ngoại được ông đặt lời Việt). Cả tình yêu đôi lứa lẫn tình yêu quê hương đều được ông đưa vào âm nhạc một cách trên cả tuyệt vời. Tình ca là một điển hình, đó là tình tự dân tộc. Có thể nói không ngoa ngữ rằng: Phạm Duy là một “phù thủy âm nhạc”, hễ ông chạm tới cái gì là nó lập tức trở thành nhạc, mà là “nhạc chất lượng cao”.

-Hoàng Việt sáng tác ca khúc này vào năm 1957 sau khi nhận được thư của người vợ từ miền Nam gửi ra. Lúc đó ông đang ở miền Bắc (tập kết năm 1954). Bài hát trộn lẫn giữa chất hào hùng, khí phách với tiếng tơ lòng trầm lắng, thổn thức. Chính vì vậy mà trong những năm đầu, Tình ca không được phổ biến rộng vì có một số người ở Hà Nội đánh giá là nó bi lụy. Nhưng vàng thiệt không sợ lửa, cho tới nay, Tình ca vẫn là một bài tình ca cách mạng được yêu thích, đặc biệt là từ tuổi trung niên trở lên. Tình ca ra đời sau một bài tình ca kháng chiến nổi tiếng khác của Hoàng Việt, đó là ca khúc Lên ngàn, được viết khoảng năm 1952-1953. Nó “thay lời muốn nói” của chính tác giả, người tham gia kháng chiến trên chiến trường, còn người vợ ở hậu phương tần tảo làm ruộng thay chồng nuôi con.

Mỗi bài Tình ca có cái hay của nó, cho dù mỗi nhạc sĩ sáng tác nó với tâm thức và ở vị trí khác nhau. May mắn là cả hai đều không phải là những bài ca “tâm lý chiến”. Chúng là tim óc, là máu thịt của những nghệ sĩ rất mực yêu quê hương, yêu dân tộc mình, thậm chí đã hiến dâng cả mạng sống mình cho tình yêu thiêng liêng đó.

Tình ca của Phạm Duy bày tỏ tình yêu đất nước. Tình ca của Hoàng Việt cho thấy cách người ta phải làm để bảo vệ tình yêu đất nước. Và vì thế, cả hai bài Tình ca của Phạm Duy và Hoàng Việt sẽ còn vang vọng mãi theo chiều dài của dân tộc Việt.   -/.

(Tham khảo: Sách báo - Internet)



VVM.10.03.2025.

| UNIVERSELLE LITERATUR | UNIVERSAL LITERATURE | LITERATURA UNIVERSAL | LETTERATURA UNIVERSALE | УНИВЕРСАЛЬНАЯ ЛИТЕРАТУРА |
. newvietart@gmail.com - vietvanmoinewvietart007@gmail.com .