Việt Văn Mới
Việt Văn Mới
             




KOBAYASHI ISSA (小林 一茶, 1763–1828)

NHÀ THƠ HAIKU NHẬT BẢN

KOBAYASHI ISSA

  
       

                  KỲ I.

K obayashi Issa (小林一茶, tên khai sinh là Kobayashi Nobuyuki, ngày 15 tháng 6 năm 1763, Kashiwabara, tỉnh Shinano [nay là tỉnh Nagano], Nhật Bản; tên thời thơ ấu là Kobayashi Yatarō; mất ngày 5 tháng 1 năm 1828, Kashiwabara), nhà thơ haiku người Nhật. Issa được tôn kính ở Nhật Bản và quốc tế như một trong những nhà thơ vĩ đại nhất của  truyền thống haikai , ngang hàng với Matsuo Bashō và Yosa Buson.

I. GIA ĐÌNH VÀ CUỘC SỐNG THỜI THƠ ẤU

Kobayashi Issa tên khai sinh là Kobayashi Nobuyuki, sinh ngày 15 tháng 6 năm 1763 tại làng Kashiwabara, tỉnh Shinano (nay là tỉnh Nagano), Nhật Bản. Ông qua đời do một biến chứng đột quỵ vào ngày 5 tháng 1 năm 1828 tại Kashiwabara . Kobayashi Issa là một nhà thơ  haikai ( haiku ),  haikai no renga ,   tanka và  haibun , một nhà văn/nghệ sĩ của  haiga (tranh haiku), và một giáo viên dạy haiku nổi tiếng ở tỉnh Shinano. Issa—một  haigō hay bút danh có nghĩa đen là "Một tách trà"—được tôn kính ở Nhật Bản như một trong những nhà thơ vĩ đại nhất của truyền thống haiku, thường được độc giả và nhà phê bình Nhật Bản xếp hạng vơi  Matsuo Bashō  (松尾 芭蕉) và   Yosa Buson (與謝 蕪村).

Là một nhà thơ được nhiều người ngưỡng mộ trong lĩnh vực dịch thuật, Issa chắc chắn là nhà thơ haiku nổi tiếng thứ hai xét về danh tiếng quốc tế của ông. Là một nhà thơ sung mãn đã tham gia hơn 250  buổi renku  (mà chúng ta biết) và ông đã để lại trong nhật ký của mình hơn 22.000 bài haiku (nếu chúng ta bao gồm các biến thể của các câu thơ).

Issa được người yêu chuộng thơ haiku biết đến và ca ngợi vì lòng trắc ẩn của ông đối với cả con người và động vật; vì niềm vui của ông đối với trẻ em; vì những câu thơ chủ quan sâu sắc của ông về niềm vui và bi kịch trong cuộc sống cá nhân của ông; vì sự tận tụy chân thành của ông đối với  Phật giáo Jōdo Shinshū (Tịnh độ chân chính); vì khiếu hài hước bất kính của ông; và vì sự sẵn sàng táo bạo của ông trong việc châm biếm những nhân vật có thẩm quyền, cả thế tục lẫn tôn giáo, trong xã hội phân cấp cứng nhắc của Nhật Bản vào đầu thời kỳ hiện đại. Nếu Bashō là nhà thơ được kính trọng nhất của truyền thống haiku Nhật Bản, thì Issa, có thể nói một cách chắc chắn , là người được yêu mến nhất.

Cha của Issa (họ: Kobayashi; tên khai sinh: Yagobei) là một người nông dân sống với vợ là Kuni tại làng Kashiwabara ở tỉnh Shinano miền núi. Vào ngày thứ năm của tháng thứ năm (ngày 15 tháng 6 năm 1763, theo lịch phương Tây), Issa chào đời và được đặt tên là Yatarō. Người ta mong đợi ông sẽ nối nghiệp cha mình, trồng kiều mạch, lúa và các loại cây khác trên gần hai mẫu đất nông nghiệp của gia đình, nhưng một số phận khác đã mở ra cho ông, được định hình bởi bi kịch cá nhân.

Vào ngày thứ mười bảy của tháng thứ tám năm 1765, khi Yatarō lên ba theo cách tính truyền thống của Nhật Bản (theo đó, trẻ em được một tuổi khi sinh ra và tăng thêm một tuổi vào mỗi năm mới sau đó), mẹ ông, bà Kuni qua đời. Ký ức về sự mất mát đau thương của người mẹ và nỗi buồn phát sinh từ sự kiện đó vẫn còn ám ảnh nhà thơ ở tuổi năm mươi hai, khi ông viết bài thơ haiku dưới đây, mà sau này ông xác định trong phần chú thích đầu trong Bầu Trời Xanh Nhạt  (浅黄空 Asagi-zora ) là một ký ức thời thơ ấu. Phiên bản đầu tiên của bài thơ này xuất hiện trong nhật ký thơ Nhật Ký Thứ Bảy  (七番日記 Shichiban nikki ) của ông vào năm 1814:

我と来て あそぶや親のない雀
Watashi to kite asobu ya oya no nai suzume

đến chơi
với tôi …
chim sẻ mồ côi

Sau đó, vào năm 1819, Issa đã sửa lại bài thơ haiku, mang đến cho nó hình thức mà trẻ em ngày nay ngưỡng mộ và ghi nhớ - thay đổi từ miêu tả ngôi thứ ba "đến chơi với tôi" thành một mệnh lệnh chân thành "đến và chơi với tôi":

我と来て遊べや 親のない雀
Watashi to kite asobe ya oya no nai suzume

đến và chơi
với tôi …
chim sẻ mồ côi

Phiên bản phổ biến hơn của bài thơ haiku này xuất hiện trong Oraga haru (おらが春, Mùa xuân của tôi), nhật ký thơ của ông năm 1819, trong đó có lời mở đầu là bức tự họa của nhà thơ khi mới sáu tuổi, một đứa trẻ cô đơn, buồn bã, bị trẻ con trong làng chế giễu một cách tàn nhẫn vì không có mẹ. Ông đã nói rằng nhiều ngày lủi thủi một mình ông phải thu mình giữa những đống củi và đám lau sậy phía phía sau khu vườn nhà. Cuộc sống của ông khi đó chỉ toàn là "nỗi đau buồn và buồn bã". Trong một văn bản khác, ông đã cung cấp thêm chi tiết về khoảnh khắc truyền cảm hứng cho bài thơ haiku: "Một chú chim sẻ không cha mẹ đã tự giới thiệu mình bằng cách hót một cách đáng thương, đơn độc. Trong một túp lều nhỏ ở sân sau, tôi chăm sóc nó cả ngày". Đây là một trong những bài thơ haiku nổi tiếng nhất của Issa, trong đó ông gọi một con vật là bạn ở vị trí đồng đẳng. Không những ông chỉ cảm thấy đồng cảm với chú chim không mẹ mà còn nhìn thấy chính mình trong đó.

Cha ông tái hôn khi nhà thơ tương lai lên tám tuổi. Mẹ kế mới của ông, Satsu , là một người đàn bà tàn nhẫn luôn ngược đãi Issa. Tuy nhiên, cách miêu tả kết tội của ông về Satsu cũng nên cần xem xét một cách "tương đối", vì khi ông viết về bà, cả hai người đều đang ở trong một cuộc tranh chấp thừa kế quyết liệt. Bất kể nguyên do hoặc chi tiết chính xác của vụ án ra sao, tuổi thơ của Issa sau cái chết của mẹ ông chắc chắn là một tuổi thơ bất hạnh. "Cậu bé con riêng Issa" đã nhìn thấy mình trong những chú chim sẻ không có mẹ, vì vậy khi viết về chúng bằng thơ haiku, ông cũng đang miêu tả Yatarō: cậu con trai nhỏ bé, bị thương bên trong người đàn ông.

Năm 1776, Yatarō tròn mười bốn tuổi. Kana, bà nội của ông, qua đời vào tháng thứ tám, tước đi của cậu dấu vết cuối cùng của tình mẫu tử trong ngôi nhà gia đình. Ngay sau đó, cậu lâm bệnh nặng, nhưng may mắn cho chàng trai trẻ Yatarō, cơn sốt của cậu đã qua và Yatarō đã sống sót. Mùa xuân năm sau (năm 1777, tuổi 15), đã đến lúc Yatarō buộc lòng phải rời khỏi Shinano đầy tuyết. Nhiều năm sau, trong  Nhật ký những ngày cuối cùng của cha tôi (父の終焉日記Chichi no shūen nikki ) xuất bản năm 1801, Issa đã mô tả hoàn cảnh khiến ông phải lên đường khi còn quá trẻ. Người nói trong đoạn văn là người cha đang hấp hối của ông, ông đã hồi tưởng lại:

Ừ, từ khi con mới lên ba và mẹ con mất, khi con lớn lên, con không sống hòa thuận với mẹ ghẻ của con. Ngày này qua ngày khác, tinh thần bị tổn thương; đêm này qua đêm khác, ngọn lửa giận dữ bùng cháy—không bao giờ có được khoảnh khắc bình yên cho trái tim. Đột nhiên, ta quyết định, chừng nào chúng ta còn sống ở cùng một nơi thì sẽ mãi như vậy—cho đến khi con rời khỏi ngôi làng quê hương của chúng ta.… Và thế là, vào mùa xuân năm con mười bốn tuổi, ta đã phải đưa con lên đường đến Edo xa xôi."

Khi đến  Edo — Tokyo ngày nay—Yatarō đã gặp phải sự khinh miệt mà nhiều người ở thủ đô dành cho những người nông dân nghèo khó từ các tỉnh tới. Những người lao động nhập cư từ vùng nông thôn tìm kiếm việc làm ở Edo bị gọi một cách chế giễu là  mukudori (椋鳥, sáo xám), có lẽ là ám chỉ đến cách họ kéo đến trên đường như những đàn chim di cư, như dịch giả Nobuyuki Yuasa (湯浅 信之) gợi ý. Hoặc như các biên tập viên của Tác phẩm Issa hoàn chỉnh (一茶全集Issa zenshū ) tin rằng, mukudori có thể ám chỉ đến quần áo giản dị, tồi tàn mà những người nhập cư mặc. Dù theo cách nào đi nữa thì thuật ngữ này cũng mang tính mạ lỵ tàn nhẫn. Nhiều năm sau, Issa vẫn nhớ lại trải nghiệm đó trong một số bài thơ haiku, chẳng hạn như bài thơ này:

椋鳥といふ人さ はぐ夜寒哉
mukudori to iu hito sawagu yozamu kana

  những người gọi tôi là "sáo"
gây náo loạn …
một đêm lạnh

II. NHỮNG NĂM MỚI TRƯỞNG THÀNH :

Năm 1787, mười một năm sau khi đến Edo, Issa, hai mươi lăm tuổi, được ghi danh là học trò của trường Nirokuan (二六庵) của Chikua về thơ haiku. 2  Ba năm sau, vào năm 1790, khi Chikua mất, ông dường như đã đảm nhiệm vai trò là người đứng đầu trường trong một thời gian ngắn, ký tên vào tác phẩm “One Tea” (一茶, Issa). Tuy nhiên, Issa không ổn định cuộc sống tại  thành phố của shogun (tướng quân) . Lấy cảm hứng từ tấm gương của Bashō, một năm sau, ông lên đường với cuốn nhật ký du lịch và cây bút tre trên tay, trong chuyến hành trình viết thơ haiku đầu tiên của mình.

Ông đã đi khắp nơi. Hai năm sau khi ông mất, khi các học trò của ông tụ họp để xuất bản thơ haiku của ông trong tuyển tập   Issa hokku shū (一茶俳句集, Bộ sưu tập haiku của Issa), những học trò này đã trích dẫn trong lời tựa bài thơ sau để tóm tắt cuộc đời và nghệ thuật của người thầy quá cố của họ:

松蔭に寝てくふ六十よ州かな
matsu kage ni nete kū roku jū yoshū kana

  dưới bóng cây thông
ngủ, ăn…
sáu mươi tỉnh !

Các học trò bình luận: “Đối với Ông già, sau ‘ao cũ’ của ông, không thể có bài haiku ‘ao cũ’ nào khác. Và đối với Issa, sau ‘bóng cây thông’ của ông, không thể có bài haiku ‘bóng cây thông’ nào khác.” “Ông già” là Matsuo Bashō, cái tên của ông mãi mãi gắn liền với bài haiku, “ao cũ: tiếng ếch nhảy xuống nước.” Bài haiku “bóng cây thông” của Issa, theo cách tương tự, đã khiến tất cả các câu thơ khác về chủ đề đó trở nên không cần thiết, hay ít nhất là những học trò tận tụy của ông đã tuyên bố như vậy. Họ ngưỡng mộ bài thơ đến nỗi họ đã dựng một tượng đài bằng đá có khắc bài thơ này tại ngôi làng quê hương Kashiwabara của Issa vào đúng ngày giỗ thứ ba của ông. Việc họ tập trung vào bài haiku đặc biệt này trong số hàng nghìn bài mà Issa đã viết đã tiết lộ suy nghĩ đầu tiên của các độc giả đầu tiên của ông về người thầy của họ. Trong mắt các đệ tử, Issa trên hết là một lữ khách - người ngủ và ăn dưới bóng thông của “sáu mươi tỉnh”: một cách nói tránh để chỉ toàn bộ đất nước Nhật Bản.

Vào tháng 3 năm 1791, ở tuổi 29, Issa rời Edo trong chuyến đi bộ đầu tiên của mình, gặp gỡ các nhà thơ haiku ở tỉnh Shimōsa, ngày nay là tỉnh Chiba. Trong Nhật ký du ký năm thứ ba của thời đại Kansei  (寛政三年紀行Kansei san nen kikō ), ông đã viết, “Năm thứ ba của thời đại Kansei [1791], tháng 3, ngày 26, rời xa Edo, tôi đã lo lắng lên đường. Những con ếch trên đồng lúa đang làm ầm ĩ, vầng trăng trên những tán cây bị che khuất trong sương mù; ngay lập tức tôi lên đường cho cuộc hành trình của mình.” Haiku này như sau:

雉鳴て梅に乞食の世也けり
kiji naite ume ni kojiki no yo nari keri 

  tiếng hót của chim trĩ—
đó là một bông hoa mận đầy
thế giới của kẻ ăn xin bây giờ!

Cụm từ “thế giới của kẻ ăn xin” (乞食の世kojiki no yo ), ám chỉ đến việc Issa phải xin ăn và trọ dọc đường.   Kaneko Tōta (金子 兜太), nhà phê bình Nhật Bản hiện đại nổi tiếng nhất về Issa, đã diễn giải tâm trạng của bài thơ haiku này là niềm vui vô bờ. Mặc dù giờ đây là một “kẻ ăn xin”, Issa vẫn cảm thấy giàu có với hoa mận và chim trĩ hót—và vô cùng sung sướng khi cuối cùng cũng được noi gương Bashō, người có nhật ký hành trình, đặc biệt là Con  đường hẹp đến các tỉnh xa (奥の細道Oku no hosomichi ) , đã cung cấp hình mẫu cho tác phẩm du ký của riêng Issa. Trong đoạn mở đầu của cùng nhật ký du ký đầu tiên này, Issa đã tự biếm họa mình là một kẻ lang thang “điên rồ”: “Lang thang về phía tây, lang thang về phía đông, có một kẻ điên không bao giờ ở một nơi. Buổi sáng, ông ăn sáng ở Kazusa; buổi tối, ông tìm được chỗ ở tại Musashi. Bất lực như một con sóng trắng, dễ tan biến như bong bóng trong bọt nước—ông được đặt tên là Thầy tu Issa.” Tên thơ haiku của Issa, “Tách trà của Thầy tu,” gợi ý về sự chuyển động liên tục trong lối sống của ông và, như chúng ta sẽ thấy, ám chỉ rằng cách ông sống trong thế giới bằng thơ haiku là một con đường tâm linh sâu sắc.

Năm sau, năm 1792 (tháng 3, ngày 25), Issa đi về phía tây và phía nam xa xôi trong chuyến hành trình đến Shikoku và Kyūshū. Rời Edo, ông viết:

いつ逢ん身はしらぬひの遠がすみ
itsu awan mi wa shiranuhi no tōgasumi 

  khi nào chúng ta sẽ gặp lại nhau?
Tôi đang đi đến ngọn lửa phát quang
trong sương mù xa

Một minh họa tuyệt vời về cách mà kỷ luật tinh thần của du hành có thể dẫn đến sự trân trọng tính phù du, bài thơ haiku này có câu, “Mưa. Trước khi lên đường, tạm biệt những người ở lại.” Lần này, ông đang trên đường đến Vịnh Shimabara, một nơi nổi tiếng với  ignis fatuus (một ánh sáng nhợt nhạt đôi khi nhìn thấy vào ban đêm trên mặt đất lầy lội) , thứ ánh sáng phát quang được gọi là "ma trơi" Câu trả lời cho câu hỏi của bài thơ “khi nào chúng ta sẽ gặp lại nhau?” là không chắc chắn trong thế giới không chắc chắn này: có lẽ có, có lẽ không—đơn giản là không ai biết.

Vào những năm 1795–97, từ năm 33 tuổi đến năm 35 tuổi, những chuyến đi của Issa đã đưa ông đến Thành phố Matsuyama trên Đảo Shikoku, nơi các nhà thơ địa phương đã chào đón ông. Danh tiếng của ông như một nhà thơ haiku đang lên cao. Vào một thời điểm năm 1796, ông đã viết,

正月の子供に成て見たき哉
shōgatsu no kodomo ni natte mitaki kana

  trở thành một đứa trẻ
vào ngày đầu năm mới …
Tôi ước vậy!

Ngày đầu năm mới, ngày đầu tiên của mùa xuân theo lịch Nhật Bản cũ, là ngày may mắn nhất trong năm. Nó gợi lên cho những người thời Issa những khái niệm về tuổi trẻ, sự tái sinh của mùa xuân và sự lạc quan tươi vui. Hơn nữa, nó còn truyền cảm hứng cho lòng sùng kính tôn giáo đối với các vị thần bản địa mà họ đến thăm đền thờ, cùng với cảm xúc yêu nước sâu sắc vào đầu năm đế quốc mới. Hình ảnh trở về trạng thái trẻ thơ đóng vai trò là biểu tượng mạnh mẽ và phù hợp cho sự phấn khích của một ngày như vậy. Trong khi người ta có thể coi  発句 - hokku của Issa chỉ là tưởng tượng đầy mong muốn - để tham gia vào những thú vui của mùa năm mới, từ những chiếc bánh gạo ngon lành đến những con diều đầy màu sắc, với sự nhiệt tình ngây thơ, đôi mắt mở to của một đứa trẻ - thì nó cũng có thể được hiểu là một ý định chân thành và nghiêm túc. Trên thực tế, khi đọc kỹ bài thơ haiku của Issa về trẻ em và nhận thức của trẻ thơ, người ta thấy rằng khái niệm trở thành một đứa trẻ không chỉ thấm nhuần thơ của Issa mà còn giúp giải thích, có lẽ hơn bất kỳ yếu tố đơn lẻ nào khác, sự vĩ đại của ông với tư cách là một nhà thơ.

Trong  Nhật ký những ngày cuối đời của cha tôi  , Issa đã mô tả cuộc đời mình bằng những hình ảnh gợi lên sự chuyển động không ngừng nghỉ: “Giống như một đám mây trôi, nghĩ về hướng đông rồi lại lang thang về hướng tây, thời gian trôi qua như bánh xe lăn xuống từ đỉnh đồi, hai mươi lăm năm trôi qua. Cho đến khi đầu tôi trở nên trắng bệch như sương giá, tôi vẫn giữ khoảng cách với cha mẹ mình”. “Cha mẹ” trong đoạn văn là cha của Issa, người đang hấp hối khi ông viết đoạn văn này. Trong một mục khác của cuốn nhật ký, được viết ngay sau khi cha mất, người con trai đau buồn đã suy ngẫm về tương lai của chính mình. Ông viết rằng ông đã hứa với cha mình sẽ định cư tại ngôi nhà của gia đình, nhưng bà mẹ kế và người em trai cùng cha khác mẹ đã phản đối và ngăn cản việc này xảy ra. Issa nói thêm, với vẻ cam chịu, rằng ông cho rằng mình sẽ “một lần nữa trở thành một kẻ lang thang trên mây, ẩn náu trong bất kỳ vách đá hay hẻm núi nào có bóng cây, ghét gió và chịu đựng mưa”. Cụm từ “ kẻ du hành trên mây ” (雲水unsui ) thường ám chỉ một nhà sư Phật giáo du hành, nhưng Issa đã sử dụng thuật ngữ này để mô tả cuộc sống của mình như một nhà thơ haiku du hành. Việc ông sử dụng biệt danh “nhà sư” và sử dụng thuật ngữ Phật giáo đơn thuần để mô tả lối sống di chuyển liên tục của mình—từ tây sang đông, từ “vách đá” đến “hẻm núi rợp bóng cây”—cho thấy rằng, bất chấp mọi sự vui tươi và khuynh hướng tự trào, Issa coi việc đi bộ của mình qua thế giới là một kỷ luật tâm linh, một “con đường” Phật giáo. Trong một số bức chân dung tự họa được ghi lại trong nhật ký của mình, ông mô tả mình là một người đi bộ, một kẻ du hành, một đám mây trôi, một dòng nước—lướt đi và không ràng buộc. Đối với những nhà sư du hành trên mây như Issa, việc từ chối ở lại một nơi khiến việc gắn bó với con người và sự vật trở nên khó khăn. Việc di chuyển liên tục, như một bài tập tâm linh, là một phương tiện để có được cái nhìn sâu sắc về bản chất phù du của vũ trụ.

Trong suốt những năm tháng vô gia cư nhất của Issa, mẹ kế Satsu và người em cùng cha khác mẹ Senroku vẫn tiếp tục phản đối việc ông trở về làng Kashiwabara và trang trại gia đình, mặc dù (theo Issa) người cha hấp hối của ông đã yêu cầu ông trở về nhà vĩnh viễn. Bài thơ haiku sau đây, được sáng tác vào năm 1810 (48 tuổi), cho thấy tâm trạng của ông trong giai đoạn khó khăn đó:

古郷やよるも障るも茨の花
furu sato ya yoru mo sawaru mo bara no hana 

  tôi càng đến gần
đến làng tôi, càng đau đớn…
hoa hồng dại

Người dân làng quê của ông không chào đón người con trai bản xứ trở về, vì vậy, khi đến Kashiwabara, ông cảm thấy đau đớn thay vì niềm vui được trở về nhà. Trong một đoạn trích cho bài thơ haiku này trong Nhật ký thứ bảy , Issa kể rằng ông đã vào Kashiwabara vào sáng tháng Năm, ngày 19, năm 1810. Ông đã bày tỏ lòng thành kính tại ngôi mộ cha mình và sau đó gặp vị trưởng làng. Mặc dù nội dung cuộc gặp của họ không được tiết lộ, nhưng rõ ràng là nó liên quan đến vấn đề thừa kế của Issa. Ông viết ngắn gọn, "Sau khi gặp già làng, [tôi] vào nhà mình. Như tôi mong đợi, họ thậm chí không mời tôi một tách trà nên tôi đã rời khỏi đó ngay lập tức." Trong một văn bản khác có niên đại cùng năm đó, ông đã sao chép lại bài thơ haiku "hoa hồng dại" này và ký tên là "Issa con riêng" (継子一茶mamako Issa ). Đứa con riêng Issa mong muốn trở về Kashiwabara nhưng đã gặp phải một sự phản đối dữ dội.

III. NHỮNG NĂM TRƯỞNG THÀNH SAU NÀY :

Khi trở về Kashiwabara sau nhiều năm du hành không ngừng nghỉ (tháng 11 năm 1812), Issa, năm mươi tuổi, đã sáng tác một bài thơ haiku về sự phù du mà sau này các đệ tử của ông coi là bài thơ cuối cùng của ông; họ khắc nó trên bia mộ của ông:

是がまあつひの栖か雪五尺
kore ga maa tsui no sumika ka yuki go shaku

  Vâng, đây rồi,
ngôi nhà cuối cùng của tôi?
năm thước tuyết

Ngôi nhà cuối cùng của Issa (つひの栖かtsui no sumika) nằm sâu dưới năm thước tuyết, điều không bình thường ở Kashiwabara vào mùa đông. Khi ông viết những dòng này, ông vẫn chưa giải quyết được chuyện tranh chấp thừa kế của mình và đang còn phải ở trong một ngôi nhà thuê trong làng: trở về quê hương nhưng chưa hẳn là nhà. Kết quả của cuộc đấu tranh gia đình vẫn còn chưa chắc chắn, vì vậy câu hỏi "ngôi nhà cuối cùng của tôi?" phản ánh sự không chắc chắn thực sự. Trong một bản sửa đổi sau đó, không có ngày tháng, ông đã thay đổi cụm từ ở giữa để đặt ra một câu hỏi hơi khác một chút, mặc dù vẫn có căn cứ về mặt tiểu sử: "Vậy thì đây có phải là nơi tôi chết không?" (死に所かshii-dokoro ka ). Trong cả hai phiên bản, Issa tự hỏi liệu ông đã trở về nhà mãi mãi hay chưa. Tuyết bao phủ ngôi làng, gợi lên sự lạnh lẽo của một cuộc trở về nhà đến một nơi không có người thân yêu nào chào đón.

Vào tháng thứ hai năm 1813, Issa trở lại Kashiwabara, sống trong một ngôi nhà thuê, quyết tâm giải quyết dứt điểm tranh chấp với Senroku và Satsu lần cuối. Ngôi nhà gia đình bị chia cắt bằng một bức tường ngăn đóng đinh ở giữa, người mẹ kế cùng người em cùng cha khác mẹ đã ra khỏi một bên để nhường chỗ cho đứa con đầu lòng của Yagobei trở về.

Vào mùa thu năm 1813, mười hai năm sau, Issa dọn về nơi chôn nhau cắt rốn và đã giữ lời hứa với người cha khi hấp hối.

Mùa xuân năm sau, Issa kết hôn. Ông đã 52 tuổi theo cách tính của Nhật Bản; cô dâu vọ ông, Kiku, 28 tuổi. Vào ngày cưới của họ, ngày 11 tháng Tư, ông đã ghi lại trong nhật ký của mình một cách ngắn gọn, “Thời tiết trong xanh. Vợ đã đến.” Cùng năm đó, vào tháng Chín, ông đã viết một bài thơ haiku ẩn dụ một cách vui tươi về cuộc hôn nhân muộn màng của mình:

人ならば五十位ぞ鹿の恋
hito naraba go jū kurai zo shika no koi

nếu bạn là con người
có thể mất năm mươi năm…
hươu giao phối

Issa cuối cùng đã kết hôn, nhưng phải mất hơn năm mươi năm, nên ông không có nhiều thời gian cho hạnh phúc gia đình. Bất kỳ chú nai trẻ nào vui đùa trên một ngọn núi có nhiều cây cối vẫn có vẻ may mắn hơn một chú rể như Issa.

Sau khi Issa và Kiku kết hôn, công việc tự nhiên tiếp theo là sinh con. Theo nhật ký của Issa, Kiku sinh con trai đầu lòng của hai người, Sentarō, vào ngày 14 tháng Tư năm 1816. Tuy nhiên, vào tháng Năm, Sentarō mới chỉ đưọc 27 ngày đã qua đời.

Vào tháng Năm, ngày 4 năm 1818, Kiku sinh một đứa con gái tên là Sato, nhưng thật đáng buồn, chuyện cũ lại lặp lại: Chỉ một năm sau, đứa bé gái mắc bệnh đậu mùa và qua đời. Trong  Oraga haru, Issa đã viết một bài văn xuôi dài, chân thành mô tả về sự ra đi của mình, kết luận rằng: “Cuối cùng, vào ngày 21 tháng Sáu, cùng với những bông hoa bìm bìm, cô ấy đã héo úa. Mẹ cô ấy ôm chặt xác chết và bật khóc. Lúc này, mặc dù tôi đã cố gắng chấp nhận sự thật rằng nước đã chảy qua thì không quay lại lần thứ hai, hay hoa đã rụng thì không bao giờ trở lại cây nữa… Tôi vẫn không thể cắt đứt sợi dây tình yêu.”

Sau đám tang, nhân dịp chôn tro hài cốt của Sato, Issa đã sửa lại một bài thơ haiku than khóc trước đó, được viết cho Sentarō hai năm trước đó, tạo nên một bài thơ mà nhiều người coi là tác phẩm tiêu biểu của ông:

露の世は 露の世ながらさりながら
tsuyu no yo wa tsuyu no yo nagara sari nagara

  thế giới này
là một thế giới giọt sương
vâng…nhưng…

Trong một văn bản khác, ông đã sao chép câu thơ này và thêm vào phần chú thích “Về việc mất đi đứa con yêu dấu”.

Vào mùa thu năm 1820 (tháng 10, ngày 5), một đứa bé, Ishitarō, chào đời, nhưng một lần nữa chân lý Phật giáo về sự vô thường lại có những hậu quả cá nhân, đau đớn. Ngay sau năm mới 1821 (tháng 1, ngày 11), đứa trẻ thứ ba này đã chết vì ngạt thở khi mẹ nó địu nó trên lưng. Issa than khóc:

なで[し]こ
のなぜ折たぞよおれたぞよ
nade[shi]ko no naze oreta zoyo oreta zoyo 

  tại sao lại nở hoa
nghỉ ngơi màu hồng?
Ồ tại sao?

Cuối năm đó, ông đã viết một cách đầy tiếc nuối về đứa con thứ ba của mình:

石太郎此世にあらば盆踊
ishitarō kono yo ni araba bonodori 

  nếu Ishitaro
vẫn còn ở thế giới này …
Vũ điệu lễ hội Bon

Trong một bài thơ haiku khác năm 1821, Issa ám chỉ rằng ông sẽ từ bỏ ước mơ nuôi dạy con cái:

あきらめて子のない鹿は鳴ぬなり
akiramete ko no nai shika wa nakinu nari

  đã từ chức
đến việc không có con
con nai im lặng

Tuy nhiên, ông và Kiku đã thử thêm một lần nữa. Vào năm 1822, tháng thứ ba (ngày 10), một đứa con trai, Konzaburō, đã chào đời, nhưng đứa hài nhi cũng không sống được bao lâu. Rồi vợ Issa lâm bệnh và qua đời vào mùa xuân năm 1823 (tháng thứ hai, ngày 19). Issa đã viết với một tiếng thở dài gần như người ta có thể nghe thấy: 

小言いふ相手もあらばけふの月
kogoto iu aite mo araba kyō no tsuki 

  nếu chỉ có sự cằn nhằn của tôi 
bạn đồng hành đã ở đây …
trăng đẹp quá!

Năm 1824, Issa tái hôn… trong thời gian ngắn. Đám cưới diễn ra vào tháng thứ năm, cuộc ly hôn diễn ra vào tháng thứ tám. Cô dâu mới của ông, Yuki, ba mươi tám tuổi, là con gái của một samurai địa phương. Tên của cô, “Snow,” rất hợp với cô, vì rất nhanh , cô lạnh nhạt với nhà thơ luộm thuộm của chúng ta, “chính-là-tôi” và trốn về nhà bố mẹ cô. Issa không hề để lộ trong nhật ký rằng ông thương nhớ Yuki. Chỉ có một bài thơ haiku, không có ngày tháng, nhắc đến cuộc hôn nhân thứ hai phù du của ông; bài thơ có câu “Ly hôn”:

へちまづる切って支舞ば他人哉
hechima-zuru kitte shimaeba tanin kana 

  sau khi cắt
cây mướp rắn …
người lạ

Dễ dàng và không thể thay đổi như việc cắt một dây leo trong vườn, Issa lại thấy mình đơn độc, một “người xa lạ” (他人tannin ) đối với người vợ thứ hai.

Ông đã cố gắng lần cuối cùng để lập gia đình.

Năm 1826, ông kết hôn lần nữa, lần này là với một người phụ nữ địa phương ba mươi hai tuổi tên là Yao. Ngay lập tức, vợ ông mang thai một bé gái, Yata, người con duy nhất của nhà thơ sống sót đến tuổi trưởng thành. Đáng buồn thay, Issa không bao giờ biết mặt đứa con gái này.

Yao, vợ Issa, bắt đầu mang thai vào năm thứ mười của Bunsei (1827), một giai đoạn đặc biệt khó khăn khi ngôi nhà chia cắt của Issa bị thiêu rụi trong một vụ hỏa hoạn và hai vợ chồng phải chuyển đến một nhà kho chứa ngũ cốc trên khu đất đó.
Nhà thơ bị đột quỵ rồi qua đời vào mùa đông năm đó, vào ngày 19 tháng Mười Một (ngày 5 tháng 1 năm 1828). Yata, con gái ông, chào đời năm tháng sau đó.

Chủ đề Phật giáo về cuộc sống và những ràng buộc yêu thương tan biến vào quên lãng không chỉ là một khái niệm trí tuệ đối với Kobayashi Issa mà đúng hơn là thực tế hàng ngày đã định hình những năm cuối đời của ông hơn bất cứ điều gì khác.

Cuộc thảo luận về cuộc đời của Issa sẽ không trọn vẹn nếu không nhắc đến hai bài thơ, mỗi bài đều được các nhà bình luận khác nhau cho là bài thơ cuối cùng của ông:

盥から盥にうつるちんぷんかん
tarai kara tarai ni utsuru chimpunkan

di chuyển
từ bồn này sang bồn khác …
lời nói vô nghĩa

ありがたや衾の雪も浄土より
arigata ya fusuma no yuki mo jōdo yori

  tri ân-
tuyết trên chăn của tôi
từ Tịnh Độ!

Văn bản của những bài thơ haiku này được coi là ngụy tạo. Tuy nhiên, một số dịch giả haiku sang các ngôn ngữ Tây phương vẫn tiếp tục trình bày chúng như thể chúng là tác phẩm của Issa. Mặc dù Issa dường như không viết, nhưng những bài thơ "giữa các bồn chứa""tuyết trên chăn của tôi" đã được hậu thế liên kết với ông, có thể là nhờ những đệ tử ngưỡng mộ cảm thấy cần phải có lời cuối cùng từ người thầy đáng kính của họ !.

... CÒN TIẾP...



VVM.01.3.2025.

| UNIVERSELLE LITERATUR | UNIVERSAL LITERATURE | LITERATURA UNIVERSAL | LETTERATURA UNIVERSALE | УНИВЕРСАЛЬНАЯ ЛИТЕРАТУРА |
vietvanmoinewvietart007@gmail.com