Việt Văn Mới
Việt Văn Mới
             



NGHĨA TÌNH CỦA NHỮNG NGƯỜI
LÀM BÁO ĐẦU TIÊN Ở XỨ BẮC KỲ

  


C uối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, đất nước Việt Nam được chia thành ba miền, gồm xứ Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ, ngôn ngữ văn bản hành chính được sử dụng giữa ba miền Việt Nam là Pháp văn và Hán văn. Việc đi lại của người dân giữa ba miền phải dùng hộ chiếu.

Triều đình Nhà Nguyễn đã cầu viện Nhà Thanh (Trung Quốc) để tấn công quân Pháp ở phía Bắc, làm nổ ra cuộc chiến tranh Pháp – Thanh (1882-1884), thực chất đó là sự tranh giành ảnh hưởng đối với xứ Bắc kỳ. Ở giai đoạn lịch sử này, Chính phủ Thuộc địa của người Pháp Thực dân, đã áp dụng nhiều phương thức để chấm dứt việc sử dụng Hán văn, đặc biệt là sau khi họ ký được với Triều đình Nhà Thanh Hòa ước Thiên Tân (Traité de Tianjin) 1885.

Chính vì bối cảnh lịch sử đó, đã trở thành cơ hội cho việc các nhân sỹ yêu nước tiến bộ người Việt, lách qua một khe hở lịch sử, tìm cách quảng bá, phổ cập chữ Quốc ngữ (thứ chữ được các nhà truyền giáo phương Tây ghi lại từ tiếng nói của người Việt, bằng các ký tự chữ cái La Tinh, từ thế kỷ 17). Tầng lớp nhân sĩ tinh hoa mong muốn dân tộc Việt sẽ có một thứ chữ viết riêng, tránh được cả việc dùng Hán văn và Pháp văn là những thứ chữ vay mượn, phù hợp với tính cách, lối sống và phương thức sinh tồn của người dân. Để thực hiện được chủ trương lớn lao này, các nhân sỹ tiến bộ đã xác định, phương tiện đắc dụng nhất, chỉ có thể là báo chí!

Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục (ĐKNT) nổ ra ở Hà Nội năm 1907 do các nhân sĩ yêu nước cả của miền Trung và miền Bắc Việt Nam, đã cùng nhau thành lập. Đây là dấu mốc, là môi trường đầu tiên để việc quảng bá chữ Quốc ngữ được thực hiện một cách rộng khắp ở Việt Nam.

Cùng thời gian này, khó khăn đầu tiên đối với các nhân sĩ trong việc thực hiện cuộc cách mạng chữ viết, đó là người Việt vẫn chưa có khái niệm về văn hóa báo chí, đặc biệt ở khu vực Bắc và Trung kỳ. Dân chúng Nam kỳ được hưởng lợi khi nói về khía cạnh này, bởi họ sống trong thể chế Thuộc địa (người Pháp đến Nam kỳ đầu tiên từ năm 1861).

Ở Bắc kỳ, năm 1891, tờ Công báo “Đại Nam Đồng văn Nhật báo” xuất bản bằng Hán văn ra đời. Tờ báo là sản phẩm của chính sách cai trị, nhưng cũng là hệ quả tất yếu liên quan đến nội dung bản hợp đồng được ký năm 1882, giữa chuyên gia về in ấn, xuất bản François-Henri Schneider (1851-1929) và Chính phủ Pháp, về phát triển ngành xuất bản ở Đông Dương. Tờ báo do sĩ phu Đào Nguyên Phổ (1861-1908) phụ trách.

Tuy nhiên, do tính chất đặc thù của Phong trào ĐKNT, một phong trào mang tính cách mạng, cùng với sự tính toán trong chiến lược cai trị, ban đầu, Nhà cầm quyền hi vọng, phong trào sẽ đáp ứng phần nào ý đồ chiến lược về quản lý văn hóa của Chính phủ Thuộc địa, nên đã đồng ý để François-Henri Schneider biến tờ Công báo “Đại Nam Đồng văn Nhật báo” thành tờ “Đăng Cổ Tùng Báo” (Khêu đèn dóng trống). Đây là tờ báo mang tính phổ thông đầu tiên ở Bắc kỳ, in bằng cả hai thứ chữ là Hán vănQuốc ngữ. Nguyễn Văn Vĩnh được cử làm Chủ bút, và là thành viên quan trọng đặc biệt của ĐKNT.

NGUYỄN VĂN VĨNH và ĐĂNG CỔ TÙNG BÁO 1907.

Bức ảnh chụp Ban Biên tập báo Trung Bắc Tân Văn, năm 1919, tờ Nhật báo đầu tiên của lịch sử báo chí Việt Nam. Các thành viên BBT chụp trong dịp ông François-Henri Schneider chuyển nhượng toàn bộ cơ sở của tờ báo ở 24 – 26 phố Orleans (nay là Phùng Hưng) Hà Nội, cho Nguyễn Văn Vĩnh.

Từ phải sang trái: Doãn Kế Thiện (1891-1965), Phan Kế Bính (1875-1921), Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936), Mai Huy Hội (1891-1949), Dương Bá Trạc (1884-1944), Nguyễn Văn Toản (1870-1938), Nguyễn Văn Luận (1888-1949), Bùi Xuân Thành (1879-1940), Phạm Huy Lục (1888-?) và Nguyễn Đỗ Mục (1882-1951)

Chúng tôi không tìm thấy có tài liệu nào nói về bộ máy của Ban Biên tập (BBT) tờ: “Đăng Cổ Tùng Báo”, ngoài việc xác định trong lưu trữ: Phụ trách phần Quốc ngữ – Nguyễn Văn Vĩnh, phụ trách phần Hán văn – Đào Nguyên Phổ!

“Đăng Cổ Tùng Báo” chỉ sống được đúng bằng thời gian với ĐKNT. Chi tiết này, đủ để một số nhà sử học đánh giá, rằng đây chính là cơ quan ngôn luận, đại diện cho một Phong trào văn hóa có tính dấu ấn trong lịch sử.

ĐKNT bị dập tắt, Chủ bút Nguyễn Văn Vĩnh trôi dạt vào Nam, ra Bắc. Năm 1913, lịch sử lại đưa đẩy, đặt Nguyễn Văn Vĩnh vào vị trí Chủ bút của một tờ báo được ấn hành hoàn toàn bằng Quốc ngữ, tờ “Đông Dương Tạp Chí” (ĐDTC).

ĐDTC có ý nghĩa giá trị lịch sử như thế nào đối với thời đại, chúng ta đã có rất nhiều tư liệu, bài viết nhận định về tờ báo quan trọng này. Ở đây, chúng tôi chỉ xin nói về những nhân sỹ Việt Nam mà chúng tôi được biết, thông qua các tư liệu sưu tầm được, cùng những cứ liệu được cung cấp từ các hậu duệ của những nhân sỹ đó, những người từng là cộng sự với Chủ bút Nguyễn Văn Vĩnh.

Thành công đầu tiên của ĐDTC, là đã quy tụ được hầu hết các nhân sỹ nổi danh hàng đầu ở Bắc kỳ. Nhìn ở góc khác, đó là sự hội tụ tinh hoa trí tuệ của xã hội đương thời. Một BBT không phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng, là Nho học hay Tây học, là một sự khó nổi bật kể cả đối với một xã hội hiện đại. Tất cả bọn họ, đều hướng đến mục đích giáo dục, phổ biến chữ viết tiếng Việt, nâng cao nhận thức văn hóa cho người đọc, bất chấp kẻ sáng lập và những người trong bộ máy của tờ báo có những toan tính, hoặc góc nhìn khác nhau về tư tưởng chính trị.

Đánh giá này không thể sai, bởi lẽ, theo kết luận của các chuyên gia nghiên cứu lịch sử văn hóa, báo chí Việt Nam thuộc “Trung tâm Lưu trữ Quốc gia Một”, thì “Đông Dương Tạp Chí 1913”  tờ báo thuần Việt đầu tiên trong lịch sử dạy người dân Việt Nam cách viết văn bằng chữ Quốc ngữ! (1)

Với kết luận này, nó là động lực giúp chúng ta, những kẻ mang ơn trước các bậc tiền nhân, sẽ chia sẻ những hiểu biết của mình, về những con người đã dày công phổ biến cho cả dân tộc, một loại chữ viết riêng, thứ chữ xuất phát từ tiếng nói mẹ đẻ. Đây là một sự thoát thai ngoạn mục, trước mưu đồ đồng hóa của hai thế lực chính trị kinh hãi trong lịch sử là Phong kiến Trung Hoa và Thực dân Pháp; Chữ viết, căn cước đầu đời của một dân tộc (2)!

Xin hãy cùng nhau nhìn lại những con người thực sự là tinh hoa trí tuệ đó, xem họ là những ai? Họ đã chia sẻ với nhau những khó khăn gì? Họ đã tận tâm cùng nhau tới đâu, khi họ lặn lội trên con đường đầy gian truân để thực hiện những lý tưởng của mình.

Sinh thời

Trong các ghi chép về lịch sử báo chí Việt Nam, thường người ta chỉ nhắc đến những cây bút có tiếng, những người có tư tưởng vượt trội so với người đương thời, hoặc những người có học hàm học vị vang danh. Nhưng để có được thành công trong một phong trào có tính cách mạng, với những người tiên phong, chắc chắn không thể thiếu những cộng sự đắc lực, những kẻ lo quản lý cơ sở vật chất, công việc nội chính, tài chính, nhất là với một người ôm một khối lượng công việc khổng lồ như Chủ bút tờ báo ĐDTC Nguyễn Văn Vĩnh.

Thật đáng kinh ngạc, vì gối đầu với “ĐDTC 1913”, năm 1917, Nguyễn Văn Vĩnh lại làm Chủ bút của tờ báo tiếng Việt sống thọ nhất trong làng báo chí bản xứ thời thuộc địa (3), đó là tờ “Trung Bắc Tân Văn” (TBTV). Năm 1919, TBTV đã trở thành tờ nhật báo đầu tiên, một dấu mốc quan trọng trong lịch sử phát triển của báo chí Việt Nam. Chưa hết, cũng năm 1919, Nguyễn Văn Vĩnh mở một tờ báo mới, và vẫn ông làm Chủ nhiệm, đó là tờ “Học báo”, là tờ báo sư phạm đầu tiên ở miền Bắc VN, nhắm đến mục tiêu giáo dục hiện đại.

Vẫn chưa hết, năm 1926, Nguyễn Văn Vĩnh quyết định thành lập Trung tâmÂu Tây tư tưởng –La pensée de l’Occident bằng kinh phí đi vay, mục đích để xuất bản, phổ biến các ấn phẩm của các triết gia và danh nhân Thế giới một cách hệ thống, và đều là các tác phẩm do chính mình dịch ra tiếng Việt.

Vẫn chưa hết, vì năm 1931, Nguyễn Văn Vĩnh lại đứng ra thành lập tờ báo tiếng Pháp L’Annam Nouveau – Nước Nam mới”, làmột tờ báo chính trị đối lập, một tờ báo định mệnh, tờ báo đã đẩy ông lên vành móng ngựa của chính quyền Thực dân. Nhà Cầm quyền đã quyết tâm tìm cách tiêu diệt ông vì nội dung của tờ báo, họ không chỉ dồn ông đến chỗ khuynh gia bại sản, không chỉ để ông phải ngậm ngùi nơi chín suối, mà còn làm cho gia đình ông tan nát, ly tán. Tệ hại hơn, là một số lực lượng mang những khuynh hướng tư tưởng chính trị khác nhau của xã hội Việt Nam, sau đó đã diễu cợt ông, phủ nhận ông, thậm chí nhục mạ ông, và tìm cách chôn chặt danh tiếng của ông!

Theo ghi chép lịch sử (4), tháng 11.1905, khi Nguyễn Văn Vĩnh mới 23 tuổi, đứng trước các cử tọa của Hội Trí tri ở Hà Nội để thuyết trình về những giá trị của đạo lý, những cử tọa đã giữ lại ấn tượng khi nghe ông nói:

“…Chúng ta quan tâm đến việc tôn trọng các dạng thức phát triển và tiến bộ của loài người, thì khi đó chúng ta sẽ có được một thái độ với tính nhân văn. Toàn bộ giá trị đạo đức của con người nằm trong mối lo toan đó…”.

Có thể, hàng trăm năm sau, đọc lại câu nói này của Nguyễn Văn Vĩnh, người đời vẫn sẽ đồng ý rằng, Nguyễn Văn Vĩnh từ khi còn rất trẻ, đã xác định giá trị cuộc sống theo một nhãn quan bao dung, trí tuệ và đầy tính nhân bản.

Vậy thì, những sự thóa mạ, sự chà đạp và hạ nhục ông của các lực lượng chính trị trong nhiều giai đoạn lịch sử, chắc chắn chẳng có giá trị gì. Nhận thức và sống một cuộc đời “lộng lẫy” (5) như vậy, Nguyễn Văn Vĩnh mới thực hiện được một sự nghiệp khổng lồ, để lại cho hậu thế cả một núi tri thức. Điều này hiện hữu đến mức, kể cả những kẻ hạ tiện nhất trên cõi đời này cũng không thể phủ nhận!

Những gương mặt đồng minh.

Thời gian trôi đi, những gương mặt đáng kính từng là cộng sự trung thành với con người “lộng lẫy” đó, đã được nhắc đến không ít lần qua những sự kiện văn hóa xã hội trong từng thời kỳ, như Phạm Duy Tốn (1881 – 1924) Nhà Tân học,  Phan Kế Bính (1875 – 1921) Nhà Nho học, Trần Trọng Kim (1883 – 1953) Nhà Sử học, Nguyễn Văn Tố (1889 – 1947) nhà nghiên cứu xã hội, Hoàng Tăng Bí (1883 – 1939) Nhà Nho, Dương Bá Trạc (1884 – 1944) Nhà Cách mạng, những nhân sỹ uyên thâm và giàu lòng yêu nước, họ đều là những con người kỳ tài.

Còn nhiều nữa những người bạn, những cộng sự cùng thời, đã chung tay góp sức cùng Nguyễn Văn Vĩnh xây dựng sự nghiệp con chữ, sự nghiệp văn hóa cho một dân tộc đói nghèo, nhưng luôn khao khát mong mỏi, hướng đến tinh thần tự do, bình đẳng, dân chủ và tiến bộ.

Đời người có rất nhiều những điều ẩn chứa những giá trị, ý nghĩa cao quý mà đôi khi, con người dù có biết, cũng không dễ để chạm tay tới được, không tiếp cận được, cho dù đôi khi, nó luôn luẩn quất ngay chung quanh cuộc sống hàng ngày. Chúng tôi phải đợi đến một cơ duyên đích thực, một sự mách bảo của các vong hồn linh thiêng… mới có được cơ hội gặp hậu duệ của gia đình một người bạn tâm giao, một người cộng sự trung thành đầy nhân cách, người đã chia sẻ, cùng Nguyễn Văn Vĩnh chống đỡ những đòn giáng của định mệnh, của các chủ thuyết chính trị, nhất là giai đoạn cuối đời của con người “lộng lẫy” đó, và đó là: Ông Ký – Mai Huy Hội (1891 – 1949).

Tìm về phố Hàng Giấy những năm cuối thế kỷ XIX.

Trong ghi chép của gia đình ông Ký – Mai Huy Hội, số nhà 46 phố Hàng Giấy, 20 năm cuối thế kỷ 19, là nơi sinh sống của gia đình bà Nghè Đại Gia (Phạm Huy Hổ), là họ hàng bên ngoại của cụ bà thân sinh ra Nguyễn Văn Vĩnh.

Hàng xóm ở hai số nhà 16 và 64 phố Hàng Giấy, thuộc sở hữu của ông bà Nguyễn Văn Ân (ông Tham Ân) và bà Trương Tần Phác.

Bà Trương Tần Phác là con gái của cụ Trương Công Hiệu (bố đẻ Trương Công Hiệu là Trương Lễ, em ruột danh tướng Trương Định (1820 – 1864).

Sinh thời, Trương Công Hiệu nguyên là Tham tá Phủ Toàn quyền Đông Dương, chuyên về ngạch tài chính kế toán. Những năm tháng đó, ông có người học trò tin cậy, đó chính là Mai Huy Hội. Do tính chất và môi trường công việc, Trương Công Hiệu có quan hệ và là cộng sự của một người Pháp gốc Đức là François-Henri Schneider (1851-1929), người đến Nam Kỳ từ năm 1882 theo một hợp đồng ký kết với Chính phủ Thuộc địa về phát triển nghành in và xuất bản.

Khi Trương Công Hiệu quyết định thôi làm công chức ở cơ quan Phủ Toàn quyền vì những vướng mắc liên quan đến một số thái độ chính trị có tính chống Pháp, ông đã làm việc cho nhà in của F.H.Schneider tại Hà Nội. Năm 1914, Trương Công Hiệu trước khi nghỉ hẳn, đã tiến cử với F.H. Schneider người thay thế mình, và đó là Mai Huy Hội. Lúc này, danh chính, F.H. Schneider là Chủ nhiệm của tờ báo “Đông Dương Tạp Chí”, mà Chủ bút chính là Nguyễn Văn Vĩnh.

Tìm đến làng TRUNG TỰ ở HÀ NỘI.

Nhà thờ Tổ họ Mai tại làng Trung Tự. Ảnh chụp 1952

Ngày hôm nay, làng Trung Tự thuộc phường Phương Liên, quận Đống Đa, Hà Nội. Tại ngôi làng mà nay vẫn chưa thể gọi là phố này, mọi người được chứng kiến, vẫn uy nghiêm một ngôi nhà thờ riêng được dựng từ những năm cuối thế kỷ 19, đó là nhà thờ Tổ của dòng họ Mai. Các cụ tổ họ Mai nổi tiếng với những vị quan văn võ song toàn từ thời Lê Trung Hưng, và phục vụ qua nhiều đời trong triều đại của vua Lê chúa Trịnh. Mai Huy Hội chính là hậu duệ của dòng họ này.

Trong ngôi nhà thờ Tổ của riêng hiếm hoi này, hôm nay chúng ta vẫn còn được chiêm ngưỡng bốn chữ vàng “CÔNG HẦU CHI HẬU”. Đây là bốn chữ của một nhân sỹ nổi tiếng thời Đông Kinh Nghĩa Thục có hiệu là Tuyết Huy – Dương Bá Trạc, trao tặng Mai Huy Hội trong buổi lễ lên lão được tổ chức tại ngôi làng này năm 1940 của thế kỷ trước.

Kết nối.

Nếu không gọi là cơ duyên, chúng ta thật khó để nói được một cách logic về nguồn gốc của mối quan hệ lịch sử giữa Trương Công Hiệu – François-Henri Schneider – Nguyễn Văn Vĩnh và Mai Huy Hội.

Việc con gái của ông bà Tham Ân – Trương Tần Phác là Nguyễn Thị Ngọc đã trở thành con dâu trưởng của ông Mai Huy Hội, mới càng thấy hết cái duyên phận của một tầng lớp người xưa, không ngẫu nhiên sinh ra một đội ngũ hậu duệ đáng để trân trọng vào những năm tháng sau này.

Thật mãn nguyện cho các hậu duệ của học giả Nguyễn Văn Vĩnh, vì vào đúng thời điểm Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh vinh danh nhà báo, nhà dịch thuật Nguyễn Văn Vĩnh là Danh Nhân Văn Hóa Việt Nam thời hiện đại, cũng là lúc họ phát hiện ra người thầy giáo đầu đời của Nguyễn Văn Vĩnh là André D’Argence, đã lấy người vợ Việt Nam, tên người phụ nữ đó là Mai Thị Lục (1870-1945) và là người chị ruột của Mai Huy Hội. Gia tộc họ Mai gọi cụ Mai Thị Lục là cụ Đốc Lục vì ngày đó, André D’Argence là đốc học – Thanh tra bậc tiểu học ở Hà Nội.

Từ lâu, chúng ta chỉ biết vào năm 1890 ở thế kỷ 19, André D’Argence là một ông giáo Tây của ngôi trường Hậu bổ (Trường Thông ngôn) nằm tại đình làng Yên Phụ. Hậu thế đã cố tình quên rằng, người thầy giáo André D’Argence, là người đầu tiên đã phát hiện ra tài năng siêu việt của Nguyễn Văn Vĩnh lúc ông mới 10 tuổi. Cũng từ đó, mọi sự đã giúp cho Nguyễn Văn Vĩnh thoát khỏi công việc kéo quạt thuê, và trở thành cậu học trò tiếng Tây, mà sau này là thủ khoa.

Việc Nguyễn Văn Vĩnh đỗ thủ khoa ngày đó không quan trọng, quan trọng hơn, đó là việc ông đã biết vận dụng được một cách tối ưu những gì học được, và được học từ mái trường đó, để cùng với các cộng sự thân tín, trong suốt cuộc đời, xây dựng thành công cho đồng bào mình, dân tộc mình một nền văn học mới, Nền Văn học chữ Quốc ngữ.

Cậu học sinh hay bị đòn ngày nào, đó cũng là người Việt Nam đầu tiên xây dựng thành công cây cầu nối hai nền văn hóa, Đông và Tây, cụ thể hơn, là nền văn hóa Pháp – Việt (6).

Liệu có ai không ngạc nhiên khi biết rõ, từ một cậu bé chăn bò thuê, qua thời gian dùi mài kinh sử, đã trở thành DANH NHÂN của một đất nước, nơi mà khi cậu bé kéo quạt lớn lên, có đến hơn 90% là nông dân, những người luôn chấp nhận cuộc đời chân lấm, tay bùn… Họ chỉ mong có cơm nó và áo ấm, mà chă dám nghĩ tới việc được học hành!

Thật ấn tượng, vì những thành công hiện hữu trong sự nghiệp tạo dựng con chữ, sự nghiệp văn hóa tư tưởng, xây dựng ngành công nghiệp báo chí, xuất bản… nhưng ông lại không cậy nhờ, hay chịu tác động, chi phối bởi bất cứ một thứ quyền lực nào, hay hệ thống tư tưởng, lực lượng tài chính nào từ bên ngoài. Ông không có gì ngoài trí tuệ, ngoài lòng yêu dân tộc, húy tâm văn hóa, cầu tiến, bằng tri thức cùng với các cộng sự, đồng chí trung thực của mình. Hôm nay, cách làm ấy, được người ta gọi, đó là phát huy nội lực!

Chung lưng đấu cật.

Năm 1919, khi cuộc đời của ngài François-Henri Schneider đã xế chiều, chứng kiến những nỗ lực bất tận của cộng sự Nguyễn Văn Vĩnh trong suốt gần hai chục năm lăn lộn cùng ngài, để tạo dựng, hoàn thiện được con chữ riêng cho người dân An Nam, để báo chí trở thành nhu cầu như cơm ăn, nước uống, và nghề in cùng nghành xuất bản hiện ra một cách cuốn hút đối với xã hội An Nam, ngài Henri Schneider quyết định giã từ đất nước này để trở về nơi xuất phát sau gần 40 năm.

Để hàm ơn người cộng sự số một của mình, người thực sự có khả năng kế thừa đại sự nghiệp, F. H. Schneider đã tự nguyện chuyển nhượng toàn bộ cơ sở vật chất, trang bị kỹ thuật của Nhà in Trung Bắc Tân Văn cho Nguyễn Văn Vĩnh.

Là những người trân trọng quá khứ, làm sao hậu thế không thấy xúc động khi ngắm nhìn bức ảnh lịch sử, ghi lại buổi lễ bàn giao quan trọng này. Bức ảnh được phục chế chi tiết, cùng với những ghi chú cụ thể (dù không hoàn toàn) về các nhân vật có mặt trong một sự kiện để đời như vậy?!

Người thực hiện công việc vô cùng ý nghĩa này, người có tấm lòng biết ơn cội nguồn một cách sâu sắc, cùng với lòng tự hào về nguồn gốc của mình, chính là người cháu đích tôn của cụ Mai Huy Hội, và đó là tiến sỹ toán kinh tế Mai Huy Tân, nguyên là chủ tịch Hội đồng Quản trị của Công ty cổ phần thực phẩm Đức – Việt, mà dân chúng quen gọi là Xúc xích Đức Việt.

Tại buổi gặp gỡ chân tình và giản dị diễn ra cuối tháng Hai năm nay ở nhà riêng của tiến sĩ Mai Huy Tân, người cha của anh, con trai trưởng của cụ Ký Hội – Dược sỹ Mai Huy Thịnh (sinh năm 1924), đã chậm rãi kể lại một cách mạch lạc, những kỷ niệm sâu đậm giữa người bố là Mai Huy Hội và ông Chủ báo Nguyễn Văn Vĩnh như thế này:

“Thầy tôi làm việc với cụ Schneider và cụ Vĩnh từ năm 1914, khi đó đã có tờ Đông Dương Tạp Chí. Cũng kể từ đó, thầy tôi không làm cho ai khác ngoài cụ Vĩnh, cho đến khi cụ Vĩnh mất bên Lào năm 1936. Thầy tôi phụ trách các công việc sổ sách, kế toán, quản lý thu chi trong hoạt động in ấn, xuất bản của cụ Vĩnh.

Ông Ký Mai Huy Hội tại văn phòng làm việc của tòa báo Trung Bắc Tân Văn.
(Ảnh chụp năm 1934)

Năm 1930, Chính quyền o ép cụ Vĩnh ghê lắm, họ tìm cách tịch thu tất cả những gì liên quan đến cụ Vĩnh. Ngôi nhà số 19 phố Hàng Trống, hồi đó có phải của cụ Vĩnh đâu. Ngôi nhà đó là nhà của thầy tôi, cụ Ký Hội. Gia đình tôi sống ở đó. Khi cụ Vĩnh cần vay tiền ngân hàng, cụ đã mượn giấy tờ ngôi nhà này của cụ Ký Hội. Cụ Ký tin cụ Vĩnh lắm, cụ đã giao bằng khoán điền thổ của ngôi nhà cho cụ Vĩnh để cụ Vĩnh thế chấp vay tiền, phục vụ cho một số hoạt động xuất bản, hỗ trợ cho “Trung Tâm Âu Tây Tư Tưởng”. Vậy nhưng khi Pháp ép cụ Vĩnh để bị phá sản, thì cả ngôi nhà 19 Hàng Trống của thầy tôi cũng bị ngân hàng tịch biên.

Cụ Vĩnh là người rất đức độ và rất thấu hiểu nỗi khổ của người khác. Hồi đó, khó khăn như thế, vậy mà cụ Vĩnh vẫn tìm mọi cách qua các mối quan hệ cá nhân, vay bằng được một khoản tiền, tôi nhớ đâu chỉ bằng ½ giá trị của ngôi nhà 19 ấy thôi. Cụ Vĩnh đưa cho cụ Ký Hội để mua cái nhà khác, đó là nhà số 21 phố Nhà Thờ. Gia đình tôi ở 21 phố Nhà Thờ mãi đến năm 1953 là vì như thế.

Tôi không thấy bao giờ, thầy tôi than vãn điều gì về cụ Vĩnh. Ngay khi cụ Vĩnh qua đời, thầy tôi đến viếng và góp nhặt tất cả các bài báo ngày đó viết về cụ Vĩnh, rồi cụ đóng thành một album để tưởng nhớ ông Chủ của mình.

Thầy tôi có một nguyên tắc trong việc dạy các con mình, đó là, ông không cho phép các con mình, khi bỏ đi một tờ giấy đã có chữ mà ném vào sọt rác. Cụ Ký Hội đều nhặt tất cả những tờ giấy có chữ đó, cho vào một cái… giống như cái lư đồng. Khi số giấy có chữ bỏ đi đó đầy lên, cụ Ký Hội châm lửa đốt.

Thầy tôi bảo: Bất kỳ là chữ của ai viết, viết về điều gì… không quan trọng, quan trọng là các con đừng biến nó thành rác! Nếu các con không muốn con cháu mình là những kẻ vô học, không có chữ… thì hãy nhớ đừng làm như vậy!

Tất cả chúng tôi lớn lên, lúc nào cũng nhớ lời dạy này của cụ.

Cả gia đình tôi cho đến giờ vẫn nhớ mãi cụ Vĩnh…!”

Người già 93 tuổi này, đã không ngồi ở chiếc ghế sa lông rất tiêu chuẩn do con trai trưởng của ông xắp đặt, để theo dõi bộ phim tài liệu lịch sử “Mạn đàm về Người Man di hiện đại” dài 4 tập với tổng thời lượng là 215 phút. Trái lại, chỉ sau 15 phút đầu tiên, ông đã đứng dạy, kéo một chiếc ghế tựa bằng nhựa, ngồi lên phía trên… và ông đã ngồi xem đến phút cuối cùng của 4 tập phim lịch sử.

Khi kết thúc, người viết bài này hỏi ông Thịnh, người già 93 tuổi đó:

“Ông ơi, ông có mệt không ạ?”.

Ông trả lời nhẹ nhàng:

“Không!”

Tôi lại hỏi tiếp:

“Ông xem phim có hài lòng không ạ?”

Ông nói:

“Hay, hay lắm! Nhiều chỗ trong phim làm tôi xúc động quá. Phim hay lắm! Tôi phải kéo ghế ngồi gần màn ảnh để nghe cho rõ. Tuổi cao rồi, đôi khi tai nó nặng… khó nghe”.

Kết.

Tôi còn biết nói gì với người con trai trưởng của người cộng sự đắc lực và trung thành của cụ Vĩnh. Nếu họ không phải là những người thân hữu, gắn bó với nhau hết lòng thủa trước, mà đã là 100 năm rồi, làm sao ngày hôm nay tôi được nghe những cảm xúc sâu sắc, chân thành đầy tính nhân đức của cái đạo làm người, từ con người đã 93 tuổi này?! Làm sao để tôi lại được học thêm bài học về tình bằng hữu, về đức hy sinh giữa những con người cùng chí hướng?!

Thêm một lần nữa, tôi yên tâm tuyệt đối khi nhận thức rằng:

Nguyễn Văn Vĩnh đúng là người công dân vĩ đại!

Trong cuộc đời con người, dù là những kẻ thành công hay thất bại, đều không thể không thấm thía khi nhớ đến các điểm xuất phát mình đã trải qua. Cách nghĩ như vậy, người đời thường vẫn gọi, đó là những kẻ biết điều! Với những người biết điều trong cuộc sống, ai cũng thấy họ quý hóa và thân thiện.

Hậu duệ của gia tộc học giả Nguyễn Văn Vĩnh và gia tộc cụ Ký Mai Huy Hội, luôn coi đây là những niềm tự hào và là động lực để vượt qua mọi thử thách, cam go trong cuộc sống. Quá khứ lung linh của các bậc tiền nhân, không phải chỉ để chiêm ngưỡng hay thờ phụng, mà cần hơn nữa, đó là việc hãy làm tất cả để các giá trị tinh thần đó, trở thành căn cốt của hậu thế, làm nền tảng cho một cuộc sống nhân văn, và là niềm hạnh phúc mãi mãi dành cho bất kỳ ai! .

Hà Nội, Tháng Sáu năm 2016.
GHI CHÚ:
1.    archives.gov.vn/Pages/Tin%20chi%20tiết.aspx?itemid=219&listId.
2.    “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt hay triệt tiêu”.  Người Đại Biểu Nhân Dân, ra ngày 30.7.2013.
3.    Thư tịch báo chí Việt Nam. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 1998.
4.    Bulletin de la Société D’Enseignement Mutuel du Tonkin. Tom XVI, N0 1-2, Janvier – Juin 1936. (Tạp chí Tin tức Hội tương tác giáo dục Bắc Kỳ). Nhà in Tân Dân, Hà Nội 1936.
5.    40 năm nói láo. Vũ Bằng, Sài Gòn 1969. NXB Văn Hóa, Hà Nội 2000.
6.    Le Programme D’ Aide à la Publication Nguyen Van Vinh – Chương trình hỗ trợ xuất bản Nguyễn Văn Vĩnh. Ambassade de France au Vietnam – Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam. 2000.
(Chỉnh sửa lần cuối 2/2025)




VVM.24.02.2025.

| UNIVERSELLE LITERATUR | UNIVERSAL LITERATURE | LITERATURA UNIVERSAL | LETTERATURA UNIVERSALE | УНИВЕРСАЛЬНАЯ ЛИТЕРАТУРА |
. vietart@gmail.com - vietvanmoinewvietart007@gmail.com .