4- QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT KINH VĂN - TRUYỀN THUYẾT
. ÐỨC QUÁN THẾ ÂM TRONG KINH ÐIỂN TRUNG HOA
Trong những hình tướng thường thấy xuất hiện trong những ảnh tượng của đức Quán Thế Âm, có một số danh hiệu tiêu biểu như sau:
1- Quán Thế Âm Vô úy:
Danh hiệu nầy thấy có trong Kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn, viết như sau: “Quán Thế Âm Ðại Bồ Tát thường dùng pháp môn bố thí vô úy để cứu vớt chúng sinh trong những cơn tai nạn, khiếp sợ.
2- Nam Hải Quán Thế Âm:
Danh hiệu nầy viết đầy đủ là “Nam Hải Viên Thông giáo, Ðại từ bi Tâm cứu khổ, Linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát”. Ðây là đức Quán Thế Âm trong ngôi vị chính là Giáo chủ Viên Thông ở miền Nam Hải.
Ngài thường nương theo tiếng kêu cứu khổ, rất cảm ứng trong nhận thức và rất linh thiêng. Ngài chỉ còn một cấp nữa là thành Phật, nhưng vì lòng thương xót chúng sinh, cho nên ở lại thế gian để cứu khổ cứu nạn. Ngài trụ ở miền Nam Hải.
3- Quán Thế Âm thiên thủ, thiên nhãn:
Một hình tượng khác là 11 đầu và nghìn tay, nghìn mắt. Ngài có công năng rất thần thông quảng đại, cứu độ chúng sinh, không nơi nào là Ngài không thấy; không việc gì là Ngài không làm được. Do vậy, Ngài có sắc tướng “nghìn tay, nghìn mắt”.
Trong đồ tượng học Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên, Tây Tạng, hình của ngài ngồi hoặc đứng, có nhiều tay, nhiều mắt.
4- Quán Thế Âm Chuẩn Ðề:
Ngài là một ứng thân trong 6 vị Bồ Tát Quán Thế Âm. Theo đúng như kinh sách, những hình tượng trình bày về danh tướng của Ngài thường được tạc có ba mắt, mười tám tay, mặc áo trắng có vẽ hoa, ngự đài sen cao quý. Quán Thế Âm Chuẩn Ðề còn có bài chủ Chuẩn Ðề.
Theo kinh văn, bài Chú nầy rất linh nghiệm, nếu ai trì tụng và tĩnh tâm duy niệm: “Nam mô tát đa nẫm, tam miệu tam bồ đề, cu chi nẫm, đát điệt tha. Án, chiết lệ, chủ lệ, Chuẩn Ðề, ta bà ha”.
5- Phật Bà Quán Thế Âm:
Những tranh tượng hoạ về các vị Quán Thế Âm Bồ Tát từ xa xưa của các nhà danh hoạ Trung Hoa, Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam, thì không thấy các ngài tỏ ra có tướng “nữ giới”. Bởi lẽ: trong giáo lý nhà Phật, Phật và Bồ Tát không có phân biệt nam tướng hay nữ tướng, mà chỉ có ba thân: Pháp thân, Báo thân và Ứng thân.
Tuy nhiên về sau nầy, trong hành trì và lễ bái cúng dường, chúng ta thường nghe đọc là Ðức Phật Bà Quan Âm. Từ thế kỷ XII trở về sau, trong các chùa chiền thường treo tượng của Ngài hình tướng phụ nữ.
Xuất xứ của điều nầy được ghi chép (ở Trung Hoa) như sau: Vào đời Nguyên ở Trung Hoa, có một vị tu hành, có đạo hiệu Ðạo Tuyên Luận Sư ở Nam Sơn; ông có viết một tác phẩm kinh điển nội dung trình bày về quá trình tu hành và đắc quả (Nữ nhân) của vị Bồ Tát Quán Thế Âm.
Giải thích về trường hợp xuất hiện của Kinh Quán Thế Âm (trong Diệu Pháp Liên Hoa Kinh) học giả Nhật bản Hajime Nakamura cho rằng: những bản mẫu đầu tiên về Kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn là được tạo ra vào khoảng cuối thế kỷ I, đầu thế kỷ II sau Công Nguyên (Nam Bắc Triều); bản gốc có 27 phẩm xuất hiện vào 35 năm sau đó.
Như thế, việc gia tăng phần phụ lục nầy là kết quả biện luận sau cùng, do Ðại hội kết tập tại Tích Lan cùng thời gian nầy.
Tuy nhiên, chưa có chứng liệu cụ thể và tài liệu Khảo cổ học xác định về trường hợp nầy. (Theo Grousset).
Ngoài ra, những bản Kinh liên hệ, có ghi phần đầu “Như thị ngã văn” (Tôi có nghe như vầy – Evam mayà srumtam), vốn chỉ một mình Tôn giả A Nan (Ananda), vị Ðệ nhất thị giả thân tín của đức Thế Tôn mới đủ uy quyền giáo hạnh để nêu lên mệnh đề đó. Ðiều nầy được ghi trong kinh tạng Nikàya.
Sách viết:
Những luận sự xưa nay thường đề cập đến các Thiên Thần về duyên khởi của đức Quán Thế Âm. Thiên Thần dạy rằng: Trong nhiều kiếp trước, có một nhân vật quyền quý, vương tộc tên là Hoa Nghiêm (Vô Tránh Niệm Vương); vợ là Bảo Ứng, sinh ra được 3 người con gái: Diệu Nhân, Diệu Âm và Diệu Thiện.
Diệu Thiện xuất gia tu hành và đắc đạo. Vị nầy có hình tướng “Thiên thủ thiên nhãn” tức là đức Quán Thế Âm. Chính vì lẽ đó mà có tượng đức Quán Thế Âm là nữ nhân.
Tiểu thuyết Trung Quốc đời nhà Minh có 3 tác phẩm trình bày về 3 nhân vật kể trên, cũng nhấn mạnh đến “nữ tính” của Quán Thế Âm.
Tại Việt Nam cũng thấy xuất hiện một cuốn truyện “Phật Bà Quan Âm” (tác giả Thích Huyền Không- Nhà xuất bản Hương Tích Ký – 1914). Truyện viết theo thể thơ lục bát, mở đầu bằng hai câu:
Rằng: trong cõi nước Nam ta,
Bể Nam có đức Phật Bà Quan Âm.
Truyền cho biết thêm: Ngài tu ở động Hương Tích, huyện Ứng Hoà, tỉnh Hà Tây.
Ở Triều Tiên có tích truyện “Quan Âm Thị Kính”. Truyện nầy cũng được phổ biến tại Việt Nam. Nhiều tuồng hát diễn lại sự tích nầy.
Truyện viết về Thị Kính (Kính Tâm), là tên một phụ nữ có chồng tên là Thiện Sỹ bị oan, nhẫn nhục đi tu, sau đắc quả. Người ta cho rằng ứng thân người phụ nữ đó là Quán Thế Âm giáng sinh và hiện hình.
Hầu hết chùa chiền Việt Nam đều có thờ tượng đức Phật bà Quan Âm. Những pho tượng Quan Âm Thị Kính có đứa bé bên cạnh Ngài thì được gọi là “Quan Âm tống tử”.
Một đoạn trong Kinh Lăng Nghiêm viết: “Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát tu được thế Viên thông. Trên thì hòa hợp với diệu tâm của chư Phật. Dưới thì tương đồng với sự trông ngóng thương xót của chúng sinh. Ngài hiện ra 32 (hay 33)) sự ứng hoá và 14 phép bố thí vô uý, phổ độ chúng sinh”.
QUAN ÂM THỊ KÍNH TRONG VĂN CƯƠNG VIỆT NAM
Quan Âm Thị Kính là một trường thiên tiểu thuyết viết theo thể lục bát, gồm 788 cân, xuất hiện vào đầu đồi nhà Nguyễn (khoảng năm 1812) ở Bắc Việt.
Truyện kể lại một kiếp tu hành của đức Bồ Tát Quán Thế Âm, kiếp thứ 10, cũng là kiếp gian nan nhất của ngài, trong văn học bình dân Việt Nam.
Ngay khi chưa vào nội dung chính, đã thấy bày ra mấy chân lý: Công việc tu hành không thể nào một sốm, một chiều mà thành tựu; chính đức Quán Thế Âm cũng đã phải trải qua 9 kiếp trước đó, với bao thử thách, mới dần dần “bụi trần rũ sạch, khói tà rửa không”...
Vậy mà chỉ một “lời nói hão” (Ðức Thích Ca Mâu Ni hiện làm gái đẹp để thử thách, người đã vô tình nói: “Có chăng kiếp khác họa là; Kiếp nầy sợ chỉ trót đà buộc tay”, cho nên phải “Chờ cho kiếp nữa đủ mười; Thử cho đày đoạ suốt đời xem sao”.
Nội dung:
Mở đầu, tác giả giới thiệu: Truyện Quan Âm Thị Kính vốn theo tích về họ Mãng ở Cao Ly Quốc.
Phần 1:
Vai chính là Thị Kính, con gái của Mãng Ông, là người tài sắc vẹn toàn. Nàng kết duyên với Thiện Sỹ, một nho sinh, họ Sùng. Hôn nhân của nàng được ba năm, ngày đêm lo cho chồng dùi mài kinh sử để chờ khoa thi.
Một đêm kia, trong khi vá may, bên cạnh chồng đang thiu thiu ngủ vì quá mệt nhọc do học hỏi, nàng thấy có sợi râu mọi chồi ra một cách dị hình. Tiện tay, nàng cầm cao dao định cất sợi râu. Thình lình khi đó, Thiện Sỹ bừng tỉnh lại, tưởng là Thị Kính toan cầm dao giết mình, cho nên hô hoán lên. Vốn thấy vợ có nhan sắc, nhiều trai trong làng thường ngưỡng mộ, cho nên Thiện Sỹ ghen tuông, quyết làm to chuyện, cho nàng là thứ gái “trên bộc trong dâu”.
Vụ án “toan giết chồng” được gia đình họ Sùng trình làng, buộc nàng nhận tội. “Oan Thị Kính” gây tủi nhục cho nàng và gia đình nàng, cho nên nàng quyết chí bỏ nhà ra đi.
Phần 2:
Nàng cải nam trang, lấy tên là Kính Tâm, đến xin quy y tu hành tại chùa Vân Tự.
Trong số những thiện nam tín nữ đến chùa Vân Tự, có cô gái Thị Mầu là kẻ lẳng lơ, tróc nết. Nhân thấy “nam tu sĩ” Kính Tâm “cổ cao ba ngấn, lông mày nét ngang” nên đem lòng yêu thương, thường lại gần để ve vản “Thầy như táo rụng sân đình; Em như gái chửa đi rình của chua”.
Nhưng lòng đã quyết chí tu hành, lại cố dấu đi thân phận của mình, cho nên Kính Tâm tìm cách để xa lánh. Thị Mầu tìm cách để trả thù.
Vốn là kẻ mất nết, tuổi còn xuân xanh, tánh dâm đảng, Thị Mầu thông dâm với đầy tớ trong nhà tên Nô.
Bụng càng càng càng phình lên, xóm làng biết được, Sùng Ông liền đút lót tiền để tên Nô dấu tông tích. Sự việc đưa ra trình làng thì Thị Mầu vu oan cho bào thai trong bụng mình là của chú tiểu Kính Tâm. Nhưng vì dấu giếm thân phận mình, Thị Kính không nói năng gì, chỉ biết nhận lấy đứa con trai sơ sinh của Thị Mầu.
Sợ liên lụy tiếng tăm chốn thanh tịnh, Thị Mầu bồng đứa bé ra đi, “ăn mày giáo sữa mười phương độ trì”.
Phần 3:
Ba năm sau, khi đứa con vừa lớn, Thị Kính quyết đoạn tuyệt cuộc đời, viết là thư dài trình lên sư phụ và tự vẫn trước cổng chùa. Ðến khi một chú tiểu khác là Thiện Nam bước ra cổng chùa, biết được kẻ quyên sinh vốn là gái giả trai, mới giải oan khiên cho nàng Thị Kính.
Sư cụ chùa Vân Tự và tín hữu thập phương liền lập đàn tràng để giải oan siêu độ cho Kính Tâm.
Bấy giờ thì oan khiên của nàng đã được Phật Tổ chứng giám:
Giữa trời kết đoá tường vân.
Ðức Thế Tôn hiện toàn thân xuống đàn.
Ào ào dạng bóng tường loan,
Tràng phan, bảo cái giao quan âm thầm.
Truyền rằng: - “Này Tiểu Kính Tâm,
Phi thăng làm Phật Quan Âm tức thì”.
Quan điểm tín ngưỡng của người bình dân chỉ được gói trọn trong một ý khái niệm đơn giản đến như vậy mà thôi.
Thành thử, khi người đàn bà “nhìn thấy” đức Quán Thế Âm đến “tống tử” (có nghĩa là tặng con) cho mình, dù là trong ảo giác, nhưng họ cũng đã cảm thấy an tâm hơn và tin tưởng hơn. Ðó là lối thoát tinh thần duy nhất được dấy lên trong những cơn khủng hoảng.
QUAN ÂM THỊ KÍNH
Chỉ đường chính giác
Nhân sinh thành Phật dễ đâu
Tu hành cứu khổ rồi sau mới thành.
Ai hay một dại làm lành,
Chứng minh trong chốn minh minh cũng tường.
Rằng: Ngô Thị tụng Kim Cương
Chân thân còn để tượng vàng nghìn thu.
Rằng: Ðịa Tạng dốc lòng tu,
Ðộ cho cũng được khỏi tù đứng thân.
Ấy là những truyện gần gần,
Tu thân mà độ được thân làm người.
Lọ là đức hạnh tột vời,
Ðức Quán Âm ấy truyện đời còn ghi.
Một niệm vô minh
Vốn xưa là đấng nam nhi
Dốc lòng từ thuở thiếu thì xuất gia.
Tu trong chính kiếp hầu qua,
Bụi trần rũ sạch thói tà rửa không.
Ðức Mâu Ni xuống thử lòng,
Hiện ra một ả tư dung mỹ miều.
Lấn khân ép dấu nài yêu,
Người rằng vốn đã lánh điều trăng hoa.
Có chăng kiếp khác họa là,
Kiếp nầy sợi chỉ trót đà buộc tay.
Nào ngờ phép Phật nhiệm thay,
Nhớ lời mà lại vin ngay lấy lời.
Trở sang kiếp khác vẹn mười,
Thử cho đầy đọa một đời xem sao!
Cõi trần mượn cửa thác vào
Hoá sinh sinh hóa lẽ nào cho hay.
PHẦN CHÍNH TÔNG
1- Lạc cõi hồng trần
Cao Ly là nước lớn thay,
Ðại Bang thành vốn xưa nay gọi là.
Lũng Tài quận ấy bao xa,
Hồ Nam, huyện Bắc, có nhà Mãng Ông.
Gia tư thời cũng bậc trung,
Chỉ hiềm trước cửa treo cung còn chầy.
Vết kim tiên kể thiêng thay,
Báo điềm mộng nguyệt mãn ngày treo khăn.
Tuy chưa phải đấng Thạch Lân,
Khấn cầu cũng bỏ người thân muộn màng.
Ðặt tên Thị Kính cho nàng,
Ðậm nhuần sắc nước, dịu dàng vẻ hoa.
Não nùng chim cũng phải sau
Người tiên cũng ở đâu ta trên đời.
Ðiểm trang tứ đức đủ mười,
Cửa vương đạo dễ chọn người sàng đông.
2- Nhân duyên hội ngộ
Ở trong huyện có họ Sùng,
Sẵn khuôn y bát vốn giòng cân đai.
Sinh chàng Thiện Sĩ là trai
Qua vòng tổng giác mới ngoài gia cang.
Kể điều tài mạo cũng ngoan,
Gã Tào kiếp trước, chàng Phan thân nầy.
Ðã trồng bạch bích dành đây,
Còn chờ bói phượng, chưa vầy bạn loan.
Thư trung đành có ngọc nhan,
Sách đèn còn bận buông màn Ðổng Xuyên.
Vẳng nghe họ Mãng gần miền,
Lam kiều là chốn thần tiên có người.
Bức tranh Khổng Tước vẻ vời,
Tay hèn dẫu bắn mấy đời cho tin.
Ðem cân mà thử bắc lên,
Bên tài, bên sắc, đôi bên cũng vừa.
Mượn người đánh tiếng trình thưa,
Cầu hôn mới viết một tờ đệ sang.
3- Vương nợ trần duyên
Mở ra họ Mãng xem tường,
Cùng phu nhân mới lo lường trước sau.
Bấy nay vốn đã quen nhau,
Họ người vả cũng công hầu xưa kia.
Can trai rèn luyện sớm trưa,
Nhà thi thư vẫn giữ nghề thi thư.
Vừa đôi, vừa lứa “quan thư”,
Há rằng Trịnh với Tề dư mà ngờ.
Ðành rằng anh én lọc lừa,
Lại còn nay đợi, mai chờ nơi nao?
Tơ hồng đã khéo xe vào,
Viết thư toàn cát mà trao họ Sùng.
4- Giả hợp, giả ly
Nàng nghe nghĩ ngợi đã xong,
Năm canh thức giấc tấm lòng cảm thương.
Linh xuân một khóm hầu vàng,
Quế non Yên đã nở nang chồi nào.
Có ta một chút má đào,
Thần hôn cũng đã ra vào làm khuây.
Áo Lai chưa mứa sàn nầy,
Thì đem kinh bố mà thay gọi là.
Tòng phu nếu đã từ ra,
Thừa hoan như lúc ở nhà được đâu!
Song thân thấy ý đeo sầu,
Gọi nàng mới dạy gót đầu cho hay.
Phàm làm phụ mẫu xưa nay,
Gái sinh mong sớm đến ngày hữu gia.
Nghĩ xem phúc trạch nhà ta,
Một mai cũng dễ “trai già nở châu”.
Sự nhà chớ chút làm sầu,
Miễn con giữ đạo làm dâu cho tròn.
Núi kia ắt hẳn chưa mòn.
Thông kia sương tuyết cũng còn chưa chi.
Và xem lối lại, đường đi,
Quanh đây thăm viếng đôi khi cũng gần.
Nàng nghe dạy dỗ ân cần,
Gạt châu mới nghĩ lại dần dần khuây.
5- Tấn tuồng huyễn hoá
Cá đi, nhạn lại tin hay,
Ðủ năm lễ đã đến ngày thừa long.
Ðào yêu tới ấy màu hồng
Ngọc trao chén dặn, hương xông áo nguyền.
Gió Ðằng kể khéo đưa duyên,
Chàng Lưu run rủi đến miền Thiên Thai.
Tiếng cầm tiếng sắt bẻ bai,
Tiếng chiêng, tiếng trống êm tai rập rình.
Một đôi tài sắc vừa xinh,
Ðố Tăng Do vẽ bức tranh nào bằng.
Có phen thề thốt dưới trăng,
Một rằng thế thế, hai rằng sinh sinh.
Ðá kia tạc lấy lời mình,
Vàng đâu tương lấy chữ tình mà treo.
Mà nàng nết đủ mọi điều,
Ðã niềm trung hiếu, lại chiều đoan trang.
Ở trên hiếu thuận song đường,
Lòng quỳ dám trễ, tay khương nào rời.
Câu thơ Liễu Nhứ ngâm chơi,
Dẫu tài ả Tạ dễ sơi (so) cho tầy.
Khuyên chàng kinh sử đêm ngày,
Thang mây mong bước ngày giầy cho cao.
Nghi gia hai chữ thi đào,
Nhận ra trăm nết, nết nào mà chê.
Hôm mai trong chốn thâm khuê,
Kẻ đường kim chỉ, người nghề bút nghiên.
6- Thế gian vô thường
Canh khuya bạn với sách đèn,
Mỏi lưng chàng mới tựa bên cạnh nàng.
Phải khi liếc mắt trông chàng,
Thấy râu mọc ngước ở ngang cạnh cằm.
Vô tâm xui bởi gia tâm,
Dao con sẵn đấy mới cầm lên tay.
Vừa giơ sắp tiên cho tầy,
Giật mình chàng đã thức ngay bấy giờ.
Ngán thay chữa dép vừa dưa,
Dẫu ngay cho chết cũng ngờ rằng gian.
Thất thần chưa kịp hỏi han,
Một lời la lối rằng “Toan giết người!”
Song thân nghe tiếng rụng rời,
Rằng: “Sao khuya khoắt những lời gớm thay!”
Càng rằng: Giấc bướm vừa say,
Dao con nàng đã cầm tay kề gần.
Hai vai hộ có quỷ thần,
Thực hư đôi lẽ xin phân cho tường.
Nàng vâng thưa hết mọi đường,
Rằng: Từ gẩy khúc loan goàng đến nay.
Án kia nưng ở ngang mày,
Sạch trong một tiết thảo ngay một bề.
Bởi chàng đèn sách mải mê,
Gối Ôn công thủa giấc hoè thiu thiu.
Thấy râu chút có chẳng điều
Cầm dao tiện để một chiều như nhau.
Há rằng có phụ tình đâu,
Muôn trông xét đến tình đầu kẻo oan.
Thác đi phỏng lại sinh hoàn,
Thì đem lá phổi buồng gan giải bày.
Công cô rằng: “Bảo cho hay,
Trộm hương, cắp phấn cũng đầy chan chan.
Mấy người tiệt quyết một an,
Nay Tương, mai Lý, thế gian hiếm gì.
Ấy may mà tính ngay đi,
Ðỉnh đình đinh nữa có khi còn đời.
Sự nầy chớ lấy làm chơi,
Sai người tức khắc sang mời Mãng Ông”.
Trách rằng: “Sự mới lạ lùng,
Sinh con ai dễ sinh lòng ấy đây?
Khúc cầm bỗng dở dang nhau,
Say đâu với đứa trong dâu hẹn hò.
Sông kia còn có kẻ dò,
Lòng người nham hiễm ai đo cho cùng.
Sự nầy mười mắt đều trông,
Thôi đừng tra hỏi gạn gùng làm chi.
Nghĩ rằng nào có bụng gì,
Ðem về dạy lấy sao thì mặc anh!”
Lặng nghe kể hết sự tình,
Ngậm ngùi nghĩ đến con mình mà thương.
Nỗi kia, đoạn nọ ngổn ngang,
Tủi thân không đâu hai hàng lệ sa.
Thưa rằng: “Trong nghĩa thất gia,
Ân lòng chiếu cố thực là hậu thay”.
Hiếm hoi mới một chút nầy,
Ðược nương cửa ấy đã may bội phần.
Nguyền xưa mong ven Tấn Tần,
Hai non ngoảnh lại cho gần cả hai.
Nào ngở trẻ mọn nghe ai,
Thả công đường nghĩa, rắc gai lối tình.
Phù dung nỡ để lìa cành,
Giếng sâu nỡ để rơi bình từ đây.
Nước trong bát đã rời tay,
Có còn bốc lại cho đầy được chăng?
Mưa tan mây cuốn nửa chừng
Rộng dung dạy thế xin vâng lãnh về.
Lờn bơn chịu trót một bề.
Quản làm sao được kẻ chê, người cười.
Gọi con đến trước lạy người,
Lạy lương nhân đã sẽ dời chân ra.
7- Dứt nợ trần duyên
Lòng nàng xiết nỗi xót xa,
Má đào ủ dột, mặt hoa âu sầu.
Ðến nơi làm lễ khấn đầu,
Lạy công cô đoạn rồi sau lạy chồng.
Như tuôn giọt lệ ròng ròng,
Nhậm hơn thổn thức dãi lòng sau xưa.
“Kể từ kim cải, duyên ưa,
Dây leo cây bách mong nhờ về sau.
Dẫu ai phụ bạc cùng n hau,
Có Thần ba thước trên đầu chứng tri.
Vì đâu phút hợp, phút ly,
Kiếp nầy đã lỡ, chắc gì kiếp sau!
Bỏ công Ô Thước bắt cầu,
Chàng Ngưu, ả Chức giã nhau từ rày”
Ngập ngừng tới lúc chia tay,
Ðôi bên sùi sụt, bốn mày châu chan.
Ai làm phụng phải rẽ loan,
Ðang tay nỡ bẻ phím đàn làm đôi.
Lòng chàng nghĩ lại bồi hồi,
Trước tuy còn giận, sau rồi lại thương.
Duyên nầy mà đã dở dang,
Còn nên gãy khúc “cầu hoàng” nữa sao!
Lưu tô sương gió lọt vào,
Ðem mâm mà chứa Ngọc Giao hẳn đầy.
Phấn kia còn dấu bình đây,
Hương kia còn ướp áo nầy chưa phai.
Xanh xanh khóm liễu Chương Ðài,
Tiếc thay đã để tay ai vin cành.
Muôn thu vắng chốn giai thành,
Vẫn còn hai chữ nan bình mang đi.
8- Tỉnh giấc mộng trần
Nàng từ giở bước vu quy,
Nhân duyên thôn có nghĩ gì đến ai.
Ðã oan vì chiếc tăng hài,
Mặt nào mà lại đi hai lần đò.
Trách người sao nỡ dầy vò,
Ðể cho Tiểu Ngọc giận nô cũng già.
Nhạn hoàng phỏng có đôi ba,
Thà rằng minh mục, chẳng thà buồn tênh.
Tủi vì phận liễu một cành,
Liều đi thì bỏ mối tình cậy ai?
Phòng riêng vò vỏ hôm mai,
Trông ngày đằng đẳng lại dài hơn năm.
Buồn trông giọt ngọc đầm đầm,
Mùi ăn chẳng nhớ giấc nằm chẳng ngon.
Nực cuời câu chuyện cỏn con,
Bằng lông mà nẩy ra hòn Thái Sơn.
Vẻ cho chút phận hồng nhan,
Cành hoa nở muộn thời tàn mà thôi.
Tủi thay tóc bạc da mồi,
Vì ai nên phải đứng ngồi chẳng khuây?
Vò dày chút phận thơ ngây,
Sự vui chẳng thấty, thấy ngay sự phiền.
Lấy chi báo đức sinh thiềng (thành).
Dễ đem má phấn mà đền trời xanh.
Có khi dốc chí tu hành,
Lánh miền trần tục, nương mình thiền môn.
Ðộ trì nhờ đức Thế Tôn,
Lỡ làng thuở trước, vuông tròn mai sau.
Nghiêm từ dành phúc về sau,
Hoạ đền nghĩa nặng, ơn sâu nghìn trùng.
Thượng thừa là Phật, là Tăng,
Xích thằng đã ải, kim thằng hẳn dai.
Chỉn e thưa giải rõ bày,
Thương con ắt chẳng nỡ hoài cho đi.
Thôi thời xuất cáo làm chi,
Thân nầy còn quản thị phi được nào.
Bàn thầm mọi lẽ thấp cao,
Ba mươi sáu chước, chước đào là trên.
9- Kẻ tỉnh người mê
Xuất gia quyết một tâm liền,
Phụ tinh đới nguyệt bước lên dặm trường.
Quần chân, áo cít diụ dàng,
Giả hình nam tử, ai tường căn nguyên
Song đường thấy sự ngạc nhiên,
Ruột tằm bối rối, thêm phiền não ra.
Biết đâu dặm thẳng, đường xa,
Biết là giếng cạn hay là bể sâu.
Chốc là ngần ấy tuổi đầu,
Ðến nay cả lớn vừa hầu cậy trông.
Giải kia lầm mất chữ đồng,
Tủi duyên ấy bỗng nỡ lòng sâm thương.
Hay là: bực tuyết, buồn sương,
Như ai khoét vách, trèo tường cha chơi.
Vậy thì sao chẳng một lời,
Biết mà gả phắt cho đời cho xong.
Ðá vàng nghe cũng bền lòng,
Lẽ nào trống thủng bồng long đến điều.
Ví dầu gió sớm, mưa chiều,
Ðể nguồn trôi nổi, cho bèo mênh mông.
Mắt loà, chân chậm, răng long,
Dễ nhờ Lữ Ngọc hết công tìm tòi.
Biết bao nước mắt mồ hôi,
Cây đồng được mấy mươi chồi cho cam.
Bây giờ đôi ngả Bắc, Nam,
Biết còn quanh quẩn cõi phàm hay không?
Nghìn năm nghiêng lở non đồng,
Biết còn ứng tiếng lạc chung đó là.
Thương thay, lụ khụ tuổi già,
Dế năm canh nguyệt, quốc ba tháng hè.
10- Một tấm hiếu thành
Nàng từ xa chốn hương khuê,
Nỗi nhà man mác mọi bề mà lo.
Cũng toajn gỡ mối tơ vò,
Thành sầu cao ngất phá cho tan tành.
Tưởng ơn trời bể mông mênh,
Dễ mà đền được ân tình ấy đâu.
Tà tà bóng ngả cành dâu,
Sớm khuya dưới gối ai hầu hạ thay.
Vắng lời khuất mặt lúc nầy,
Lòng người thiểu não, biết ngày nào nguôi.
Nghĩ điều mưa nắng xa xôi,
Cảm thương đòi đoạn, bồi hồi từng đau.
Chân trời, đất khách đã lâu,
Chiêm bao lẩn thẩn ở đâu quê nhà.
11- Nương cửa Bồ Ðề
Hỏi thăm dặm liễu dần dà,
Ngỡ đâu Vân Tự chẳng là ở đây.
Bốn bề phong cảnh lạ thay,
Bồng lai kia cũng thế nầy mà thôi.
Cửa thiền sẽ lén chân coi,
Trông lên sư cụ vừa ngồi tụng kinh.
Mưa hoa rẩy khắp bên mình,
Nhấp nhô đá cũng xếp quanh gật đầu.
Mới hay, đạo Phật nhiệm mầu,
Nghĩ đây cũng dễ đổi sầu làm vui.
12- Học hỏi đạo mầu
Chờ khi kinh giáo vừa rồi,
Lạy sư mới bạch khúc nôi tỏ tường.
Trình bày tên tuổi gia hương,
Nhà xưa theo dấu văn chương cũng là.
Chán vòng danh lợi phồn hoa,
Chấp tay xin đến thiền gia quy y.
Sư rằng: “Này đạo Từ Bi,
Rộng đường phổ độ, hẹp gì trần duyên.
Nhưng sau đương độ thiếu niên,
Nhìn xem phong thể cũng nên con người.
Cớ chi nhà lối xa khơi,
Ðem mình đài các vào nơi lâm tuyền.
Hay là tủi phận, hờn duyên,
Hay là đeo luỵ, mang phiền chi chẳng?
Chỉn e vượn Sở lạc chừng,
Bận lòng đến cả cây từng chưa minh.
Thưa rằng: “Trẻ mỏ thư sinh,
Làm chi cho được lụy mình chớ e.
Lén chân nhờ bóng sân hoè,
Cũng mong tranh đấu ngựa xe với người.
Ðoái trông sự thế nực cười,
Như đem trò dối mà chơi khác gì.
Phù vân một đóa bay đi,
Khi thì áo trắng, khi thì muông đen.
Chật đường nam thoán như nêm,
Cân đai nhan nhản người quen với mình.
Chẳng thèm ra áng công khanh,
Mà đem thân thế làm hình dịch chi.
Cho nên mến cảnh trụ trì,
Giám xin nhờ đức Tăng ni mở lòng”.
Sư khen rằng: “Kẻ nho phong,
Ðã xem đến chữ “sắc không” đâu mà.
Kìa bào, kìa ảnh, phút qua,
Kìa sương, kìa chớp, kìa là chiêm bao.
Lọ là tranh khí thấp cao,
Kẻ xem khoái chí, người gào thất thanh.
Lấy ai làm nhục, làm vinh,
Trăm năm là áng cỏ xanh rì rì.
Sao bằng vui thú Liên trì,
Dứt không tư tướng, sá gì nhị biên.
Ðạo này: huyền thực là huyền,
Hư không mà vẫn đạm nhiên thế nầy.
Tiểu đà mên đạo tới đây,
“Kính Tâm” tên đặt, từ nay gọi thường.
13- Tạm phục khách trần
Vâng lời nương cánh Thượng phương,
Khêu đèn bát Nhã, gióng chuông tham thiền.
Chân Kinh ghi chữ tâm truyền,
Chực toà Long nhiễu, vui miền Hồ khê.
Ðòi cơn tưởng nỗi hương quê,
Người đi nghìn dặm, lòng về năm canh.
Sự mình, mình ngỏ với mình,
Nặng tình cũng phải nén tình làm khuây.
Này gươm trí tuệ mài đây,
Bao nhiêu khổ não cắt ngay cho rồi.
Hương xông pháp giới ngùi ngùi,
Thông rung trống kệ, trúc hồi mõ kinh.
Có người cảnh lại càng thanh,
Bồn không cũng nảy ra cành liên hoa.
Ðã lồng ba tấm cà sa,
Nhưng người tiên vẫn trông ra khác phàm.
Dập dìu trước chốn thiền lam,
Ðứa hoà xuân những muốn làm ni cô.
Ngỡ chàng Phan Nhạc đấy ru,
Ra đâu cũng ném quà cho tiếc gì.
Trời sinh tư sắc làm chi,
Hoa thơm bướm cũng có khi bận lòng.
14- Ðịa ngục, thiên đường
Trong làng có một phú ông,
Gia tư so với Thạch Sùng kém đâu.
Tiểu thư ở chốn hồng lâu,
Tuổi vừa đôi tám, Thị Mầu là tên.
Lá hồng đặt xuống dâng lên,
Mối duyên đo đắn chưa nên mối gì!
Nào rằng giữ nết khuê vi,
Ngày rằm, mồng một, cũng đi cúng dường.
Liếc trông thấy tiểu dịu dàng,
Sóng thu xui khiến cho nàng khát khao.
Người đâu có dáng thanh tao,
Bóng hoa dưới nước, vẻ sao trên trời.
Sắp thưa chưa kịp ngỏ lời,
Mới đồng mặt chút đã dời chân đi.
Khấn sao đức Phật hộ trì,
Xui ra họa có chút gì được thân.
Vì không phải kiếp Chân Trần,
Thì xin một trận phong vân cũng nhờ.
Lạ chăng tiểu vẫn hững hờ,
Mấy phen thì cũng thờ ơ với mình.
Hoa kia nói hẳn nghiêng thành,
Chào hoa, hoa lại vô tình mấy căm.
Tri âm chẳng gặp tri âm,
Ðể ai mong đứng, mong nằm sầu riêng.
Trách ông Nguyệt Lão nào thiêng,
Có khi bên thích, bên kiêng kẻo là.
15- Vào sổ đoạn trường
Ðăm đăm tưởng nguyệt, mơ hoa,
Biết bao khuây khoả cho qua cơn sầu.
Trong nhà sẳn đứa Thương đầu,
Quyền nghi một chút dễ hầu ai hay.
Nào ngờ gió thổi mư bay,
Hạt kia gieo đấy, đủ ngày thì sinh.
Ba trăng coi đã khác hình,
Cơm áo thì biếng, mùi chanh lại thèm.
Song thân ngờ mới hỏi xem:
“Sao con đã mọc ra điềm chẳng hay?
Thế mà ai hỏi bấy nay,
Ðôi bên tay áo chẳng day bên nào.
Lời rồi khôn biết làm sao,
Chứ con gỉa mận, gieo đào với ai?
Dễ mà ăn cáy bưng tai,
Dăng dăng nghe chuyện bề ngoài hổ ngươi”.
Nàng rằng: “Ðâu khéo những lời,
Nào đâu dễ có dại đời thế đâu.
Cánh hoa vẫn giữ con mầu.
Con oanh vẫn hót tiêu sầu mặc thây.
Vì dù tính nước lòng mây,
Nhà ma nào chịu đền rầy chưa đi.
Năm xung, tháng hạn phải khi,
Hoá ra thế ấy, hỏi chi bực mình”.
16- Ác nhân ác quả
Dứt lời, nghe mõ nguyện bình
Rằng: “Ðòi con gái ngoại tình ra tra.
Phú ông thấy sự xấu xa,
Trở vào tắc lưỡi, trở ra vật mình.
Rằng: Con sinh sự sự sinh
Há rằng vạ ở trời xanh gieo vào.
Một là động địa làm sao,
Nước phương mộc dục thấm vào chẳng sai.
Hai là lầm trhuốc dong dài
Cái dâm dương hoắc thì ai cũng vừa.
Ba là phải đứa trao bùa,
Miếng trầu hoan hỉ nó cho bao giờ.
Vô tình nào có ai ngờ,
Thế mà ăn nói bỡn bờ như không.
Không thì thưa thớt cho xong,
Khéo mà bè chuyối trôi sông chăng là.
Dắt tay kính dẫn nàng ra,
Con mang bụng nẵng, cha già theo sau.
Những là chê khó, chê giàu,
Ðể sau con dại dễ hầu ai mang.
Phú ông nghe nói hổ hang
Nhủ rằng sau đấy lựa đàng mà đi”.
Thưa rằng: “Hổ phận nam nhi,
Tam tòng hằng giữ một ly chẳng rời.
Dẫu nghe bãi Hán chơi bời,
Ðố người cường bạo một đời dám trêu.
Ðiều đâu như dệt, như thêu,
Ðiều đâu ai khéo đặt điều xấu xa.
Có đâu những thói dâm tà,
Bởi vì xấu máu hoá ra thân nầy.
Thực là vạ gió tai bay,
Bỗng nhưng gắp lửa bàn tay tội đời!”
Làng rằng: “Nào phải nói chơi,
Ðừng quen giáo lá những lời vắt chanh.
Tướng kia coi đã hiện hình,
Nhỡn quan thu thủy có lành được đâu.
Chẳng hay ngày tháng bao lâu
Má hồng coi đã ra màu xanh xanh.
Phải ai thì thú thực tình,
Luật cho đoàn tụ cũng thành thất gia.
Không thời một chữ thưa qua
Chín trâu chưa dễ chuộc ra được nào.
Nghe lời dìu dặt mà nao,
Nghĩ mình đã trót dễ nào dấu xong.
Thương đầu nó đã tuếch trong
Nói ra thêm xấu vả không có chừng.
Phép người đã cứ cung xưng
Yêu ai chỉ nấy, may chưng được nhờ.
Thưa rằng: “Trước hãy còn sơ,
Cạn sông thì cá sờ sờ khôn che.
Xưa nay ở chốn thâm khuê,
Dù ong hay bướm chưa hề biết ai.
Phải khi lên chống thiền trai
Kính Tâm tiểu ấy gặp ngoài sau bia.
Quá yêu trót đã nguyện thề,
Nhị hoa phó mặc bướm kia ra vào.
Dù nên cầu bắc gửi trao,
Nhờ làng ơn ấy đời nào dám quên”.
17- Trần ai điên đảo
Rõ ràng chỉ mặt tường tên,
Truyền đòi tiểu đến nhãn tiền đôi co.
Mảng tin thầy tớ đều lo,
Dữ lành nào biết duyên do việc gì.
Vâng đòi sư dẫn tiểu đi,
Tay lần tràng hạt, miệng thì tụng kinh.
Ðến nơi, làng hỏi sự tình:
“Tiểu kia đã quyết tu hành đến đây.
Sóng kia sao hãy còn hay,
Thị Mầu kia đã trình bày phân minh.
Nói ngay thôi cũng thứ tình,
Liệu tha chớ có dấu quanh nữa đòn.
Lặng nghe đau đớn lòng son,
Kiếp tu thuở ấy có tròn được chăng.
Bây giờ cải dạng nam trang
Nói ra dễ giữ khói nhang được nào.
Thực vàng dẫu lửa mà sao,
Ðốt than mà thử mấy tao cũng rầu.
Trước sau nông nỗi gót đầu
Rằng: “Câu không sắc dễ hầu dám sai.
Như còn bợn dạ trần ai,
Thì xin có đức Như Lai trên đầu.
Trái tai làng hỏi Thị Mầu,
Cứ thưa một mực trước sau rành rành.
Làng rằng: Thôi chẳng oan tình
Tiểu kia cứ thực mà trình mới xong.
Chẳng suy Phật ấy làm lòng
Như đường gia thất cũng không cấm nào.
Thôi đừng dối Phật dối nhau,
Ăn hoa lội nước, ăn rau khóa rào.
Ðào yêu chẳng dỗ được nào,
Buồn mình lại quyến đứa nào yêu chơi.
Giả hình làm tiểu dối đời
Dối ai dễ dối được trời kia ra?
Liệu ba mưoi sáu đường tu,
Chẳng thì văn bút vũ vồ dễ chi”.
18- Trường học thiên nhiên
Nói sao cũng cứ chi chi,
Thằng roi, đứa nọc tức thì truyền mau.
Làm cho chín khúc cũng đau,
Ðào nhăn nhó mặt, liễu cau cớn mày.
Hải đường gặp trận gió tây,
Lá rung lai láng,hoa bay tơi bời.
Mười phương Phật, chín phương Trời,
Chưa hay đến sự dưới đời oan ru.
Ðứa nào soi thấu lời vu,
Bôi loè đen trắng, lộn mù phải chăng.
Buồng thơm càng một khăng khăng,
Nỡ nào để tiếng thầy Tăng giết người.
Áo xiêm xem đã tơi bời,
Thương thay sư mới cất lời van lơn.
Thưa rằng: “Làm phúc là hơn,
Mở lòng Bồ Tát, dẹp cơn lôi đình.
Khoán làng xin nộp phân minh,
Dại khôn xin hãy thứ tình một phen.
Cất lời đạo đức nói lên,
Dẫu người độc dữ cũng nên xuôi lòng.
“Những toan đập đánh cho cùng,
Nay sư đã lĩnh thì dung cho về”.
Bè từ tế độ cũng ghê,
Chẳng thời xa chốn sông mê còn gì.
Ngửa nhờ giọt nước dương chi,
Rẩy cho đã héo rồi thì lại tươi.
19- Càng rèn, càng cứng
Lân la sư mới ngỏ lời,
Rằng: “Con đã mắc tiếng người chê bai.
Tam quan, ra ở bên ngoài,
Kẻo e miệng thế mỉa mai đến thầy.
Dù con thực có chuyện nầy
Lòng trần rửa sạch từ nay thì chừa.
Như không mà có tiếng ngờ,
Cũng nên khuyên gượng làm ngơ chẳng buồn.
Vâng lời ra ở thiền môn,
Trông toà phương trượng dám còn vào ra.
Nương mình bên cụm cúc hoa,
Một hai chồi trúc, năm ba khóm tùng.
Gương bạch nguyệt, quạt thanh phong,
Cười cùng thiếu nữ, bạn cùng thuyền quyên.
Lấy chi làm chuyện giải phiền,
Quyển kinh trăm lá, ngọn đèn một hoa.
Bạch vân khuất nẻo xa xa,
Song thân ta đấy là nhà phải không?
Bể non chưa chút đền công,
Bấy lâu nay cũng nặng lòng vì con.
Ngỡ rằng qua hạn cự môn,
Ai hay Thái Tuế hãy còn theo đây.
Tiền sinh nghiệp chướng có dầy,
Cho nên trời bắt đem đầy trần gian.
Mắt phàm không rõ ngay, gian,
Hai phen đem buộc tiếng oan tày trời.
Chân kinh tụng mấy muôn lời,
Tai ương hay dở rụng rời như do.
Sá thù chi đứa dâm ô,
Nước tùy duyên rửa đi cho kẻo mà.
Chữ rằng: Nhẫn nhục nhiệm hoà,
Nhẫn điều khó nhẫn mới là chân tu.
Lọc vàng bao quản công phu,
Mặt ngừng trên vách mấy thu đã chầy.
20- Thấy lòng Bồ Tát
Lá ngô lần điểm đốt tay,
Thị mầu đã đủ đến ngày sinh trai.
Phú ông chi quản nỡ hoài,
“Con ai thì phó trả ai giữ giàng”.
Lòng nàng dở dở, dang dang,
Giải lòng khoái thích chẳng thương được nào.
Trên tay nâng giọt máu đào,
Hầu đi lại đứng, toan vào lại ra.
Ngỡ chơi đâu biết thế mà,
Cắn răng đem tứt ruột già cho ai.
Ðem đầu ra nẻo thiền trai
Ôm con liền lén đứng ngoài mái hiên.
Tiểu đang tụng niệm khấn nguyền,
Bỗng nghe tiếng trẻ khóc lên giật mình.
Ngoảnh đi thì dạ chẳng đành,
Nhận ra thì hoá ra tình chẳng ngay.
Gớm thay mặt dạn, mày dày,
Trân trân rằng: “Trả con đây” rồi về.
Cơ thiền kể đã khắc khe,
Khéo xui ra đứa làm dê diếu mình.
Nhưng thời trong dạ hiếu sinh,
Phúc thời làm phúc, dơ đành chịu dơ.
Cá trong đáy nước sởn sơ,
Thì nay chẳng cứu còn chờ khi nao.
Chẳng sinh cũng chịu cù lao,
Xét tình măng sữa nưng vào trong tay.
21- Thể đức hiếu sinh
Bữa sau sư cụ mới hay,
Dạy: “Như thế ấy thì thầy cũng nghi.
Nếu như khác máu du thì
Con ai mặc nấy, can gì đa mang.
Bạch rằng: “Muôn đội thầy thương,
Xưa nay thầy dạy mọi đường nhỏ to.
“Dẫu xây chín đợt phù đồ,
Không bằng làm phúc cứu cho một người”.
Vậy nên con phải vâng lời,
Mạng người không lấy làm chơi mà liều”.
Sư nghe thưa thốt mấy điều.
Khen rằng: “Cũng có ít nhiều từ tâm”.
22- Trời bể khôn tầy
Rõ là nước lã mà lầm,
Cũng đm giọt máu tình thâm hoà vào.
Mẹ vò thì sữa khát khao,
Lo nuôi con nhện làm sao cho tuyền (toàn).
Nâng niu xiết nỗi truân chuyên,
Nhai cơm, mớm sữa, để nên con người.
Ðến đâu ai cũng chê cười,
“Tiểu kia tu có trót đời được đâu!”
Biết chăng: một đứa thương đầu,
Mình là hai, với Thị Mầu là ba.
Ra công nuôi bộ thực là,
Những buồn, có trẻ hoá ra đỡ buồn.
Khi trống giục, lúc hồi chuông,
Tiếng chuông lẫn tiếng ru con tối ngày.
Phù trì như thổi ra ngay,
Lọ phương Hoạt ấu, lọ thầy Bảo anh.
Phù thiêng đã sẵn Kim kinh,
Ma vương kia cũng phải kinh lọ là.
Thoi đưa, tháng trọn, ngày qua,
Mấy năm mà đã lên ba tuổi rồi.
Con mày mà giống cho nuôi,
Hình dung, ý tứ khác nòi bản sinh.
Mai ngày đến lúc trưởng thành,
Cơ cừu dễ sáng tiền trình hơn xưa.
23- Giả hợp, gỉa ly
Vừa mừng con đã sởn sơ,
Ai ngờ tằm kéo hết tơ thì già.
Gió vàng một phút thoảng qua,
Lá ngô biến sắc, cành hoa ủ màu.
Khen rằng này đạo cao sâu,
Cầm lòng sát tuyệt ngon đâu phàm trần.
Hoá thân thì mượn chân thân
Siêu thân thì lượm tinh thần mang đi.
Ký quy đành chẳng lệ chi,
Ðoái tình trứng nước, nghĩ thì cũng thương.
Gọi con, từ giã mọi đường,
Bút hoa mới viết ba hàng văn nguyên.
Phong thư dạy dỗ cần quyền,
Cầm tay rồi đoạn tìm lên quê nhà.
Chờ khi xá tự thoát ra
Lên hầu sư phụ rồi mà bạch ngay.
Dứt lời thoát đã chia tay,
Hồn hương đã sẵn xe mây rước về.
Khen cho bé nhỏ mà ghê,
Vật mình lăn lóc ngồi kề một bên.
Vâng lời nhủ lại dám quên,
Xăm xăm lên bạch sư trên thiền đường.
24- Bản lai thanh tịnh
Thấy lời sư nghĩ mà thương,
Dạy rằng: “Nào bản đạo tràng ra coi.
Kính Tâm chầy Phật di rồi,
Phải ra xem xác chớ coi lẽ thường”.
Giờ lâu nghiêm ngặt tỏ tường,
Rằng: nay tiểu ấy coi nhưởng n ữ nhi”.
Sư rằng: “Nghe lói hồ nghi,
Vãi đây ra thử, có thì lại thưa”.
Vãi rằng: “Sự chẳng còn ngờ,
Thế mà đày đoạ bấy giờ đến nay”.
Sai vào nói với làng ngay,
Quả nhiên xóm nọ, thôn nầy đổ ra.
Thiên nam, tín nữ, lão bà,
Ðều rằng: “Tu thế mới là chân tu”.
Cha con Mầu Thị phao vu,
Mõ rao lập tức ra cho làng đòi.
Khoán sư dân dã thu rồio,
Chiếu thu nộp một bắt bồi làm hai.
Trị tang các việc trong ngoài
Phú ông có đó cho ai được nào”.
25- Ai người mắt tuệ
Tiểu nhi sư mới gọi vào,
“Cha con có dặn những sao bấy giờ?”
Bạch rằng: “Thương chút con thơ,
Dối dăng có viết một tờ lại đây”.
Xem rồi sư cụ mới hay,
Thương cho tiếng nọ, điều này những oan.
Xa xôi, cách trở trùng san,
Cho đưa thư tới hương quan quê nàng.
26- Thị phi rạch ròi
Sắm sanh lễ vật mọi đường,
Phú ông vâng phản tính phương chu toàn.
Ngửa tay chịu việc tần phiền,
Nhờ ơn báo bổ đã nên cam lòng.
Thị Mầu cũng bạn má hồng,
Ðể tang mà khóc bằng chồng dở dang.
Phần thì xấu với lân bàng,
Phần thì buồn với song đường nói đay.
Còn người còn cái thẹn nầy,
Phải liều như thể vợ thầy Trang Sinh
Trầm luân kiếp ấy đã đành,
Rồi ra còn có chút tình xấu xa.
27- Nguyên lai là không
Xót thay họ Mãng tuổi già
Bức thư đưa tới mở ra rụng rời.
Vẫn mong đã mấy năm trời,
Thấy thư lại hoá ra lời biệt ly.
Ý hoè một giấc còn chi,
Người là người cổ, thư thì thư không.
Quản bao nước thẳm, non cùng,
Treo khăn, quẩy gánh thẳng dong tức thì.
Nghe tin Thiện Sỹ cùng đi,
Gánh sầu san sẻ nặng thì cả ba.
Thấp cao dặm trúc ngàn hoa,
Qua Bình Tây đến đây là chùa Vân.
Cần quyền xót nỗi song thân,
Dầy non lẻ lối mấy lần xông pha.
Ngẩn trông ba thước hồng la,
Trách thầy Tử Hạ khác mà được chăng?
Thiên cung từ vắng ả Hằng,
Tìm kim đáy nước, mò trăng giữa đầm.
Non hành nhạn vắng tin thăm,
Sóng hồ bèo cá thì tăm cũng chìm.
Bấy lâu tin tức đã im,
Ai hay di thể còn tìm nơi đây.
Giữa đường thoát gánh khỏi tay,
Xuân già huyên cỗi, sau nầy làm sao?
Lòng chàng chín khúc tiêu hao
Hạt châu lai láng, tâm bào như nung.
Lời nguyền chỉ núi, thề sông
Tiếng là da má nghĩa cùng thịt xương.
Tơ duyên bỗng rẻ đôi đường
Vì anh lỗi đạo, cho nàng ngậm oan.
Châu rơi có lẽ phục hoàn
Cũng mong Liễu tại tay Hàn mai ngay.
Nửa chăn để bụi đã dầy,
Uyên ương ước lại sum vầy hợp duyên.
Vi Cao lòng vẫn liền liền,
Ngọc tiêu phỏng độ mấy niên tái hoàn.
Thề rằng: “Não chuyên dân gian,
Lại xin theo dấu Niết bàn ở đây.
Họa may gặp kiếp sau nầy,
Vậy thì xin hóa làm cây Hàn bằng”.
Ai coi thấy chẳng ngập ngừng,
Ðộng lòng mà khóc người dưng sụt sùi.
28- Lấy vọng trị vọng
Một phen bồ bặc tới lui,
Ðắp mồ tổ dạo đặt nơi ủy hình.
Theo đưa kia biết bao tình,
Ðức nuôi hoàng khẩu, đặng sinh bạch đầu.
Tiêu thiều ánh ỏi giọng sầu,
Một giây bạch bố bắt cầu độ vong.
Kìa ai muốn khảo cho cùng,
Theo đua cũng chạnh tấm lòng ăn năn.
Nổi cơn lệ vũ, sầu văn,
Sắp đồ pháp khí, rung cần linh phan.
Mồ hương, nắm ngọc đã an,
Cửa thiền mới đặt pháp đàn làm chay.
Tranh đồ thập cúng treo bày,
Lòng đi ba cõi, hương bay chín trời.
Bảo đường tụng niệm mấy lời,
Chúc cho giải thoát sang đời mai sau.
Phần Kết
Ai hay phép Phật nhiệm mầu
Có khi nước Trúc ở đâu cũng gần.
Giữa trời một đoá tường vân,
Ðức Thế Tôn hiện toàn thân xuống đàn.
Vần vần tỏ giáng tường loan,
Tràng phan, bảo cái giao hoan âm thầm.
Truyền cho nàng tiểu Kính Tâm,
Phi thăng làm Phật Quan Âm tức thì.
Lại thường đến đứa tiểu nhi,
Lên tay cho đứng liền khi bấy giờ.
Kìa như Thiện Sỹ lờ đờ
Cho làm chim vẹt đứng nhờ một bên.
Ðộ cho hai nhóm xuân huyên,
Ra tay cầm quyết bước lên trước toà.
Siêu thăng thoát cả một nhà,
Từ đây phúc đẳng hà sa vô cùng.
Lên miền Cực Lạc hội đồng
Mọi người khi ấy đều trông rành rành.
Thực là: lành lại gặp lành,
Nam Mô Di Phật tu hành thời coi.
QUÁN THẾ ÂM BẠCH Y VÀ BẠCH Y THẦN CHÚ:
Tại Trung Hoa, Triều Tiên, Nhật Bản, Tây Tạng và Việt Nam, đức Quán Thế Âm còn mang hình ảnh của “Quán Thế Âm Bạch Y” hay “Bồ Tát Bạch Tôn” “Bạch Y Quán Tự Tại Mẫu”.
Ở đây, “Bạch” là màu trắng, tượng trưng cho Bồ Ðề; có nghĩa: Tất cả những ai trong sáu cõi, nếu diệt sạch được phiền não ở nhân gian, đạt được Trí tuệ của Niết Bàn, thì những người đó được gọi là Bồ Ðề.
Bạch Y Quán Âm biểu trưng cho vị có thể tiêu trừ hiễm họa cho dân chúng, bảo vệ bình an, hạnh phúc cho mọi người.
Trong bộ “Biệt Tôn Tạp Ký” có viết:
“Nếu như chúng sanh trì tụng được bộ kinh “Cứu Diệu Tức Diệt Ðại Bạch Y Quán Thế Âm Bồ Tát Ðà La Ni” thì trong thiên nhiên, từ trăng sao đến vạn vật, tất cả đều an bình, vui vẻ; tất cả đều bảo vệ cho gia đình của họ được bình yên. Phàm việc ứng xử trong gia đình, khi cầu khấn Ngài Quán Âm Bạch Y và tụng Bạch Y Thần Chú (23 chữ) thì tai qua, nạn khỏi, thường hoạch cát tường viễn ly khổ ách.