M
ùa xuân về, cây đào khoác lên mình một vẻ đẹp rực rỡ tinh khôi. Những cành đào khẳng khiu bỗng bừng tỉnh sau giấc ngủ mùa đông,
đâm chồi nảy lộc, khoe sắc đỏ, hồng phớt dịu dàng. Từng nụ hoa chúm chím e ấp dần hé nở, để lộ những cánh hoa mỏng manh, xếp lớp như những bàn
tay nhỏ xinh xắn đón chào nắng xuân. Hương thơm nhẹ nhàng thanh khiết lan tỏa trong không gian, mang theo hơi thở của một mùa xuân mới.
Lá non xanh mơn mởn điểm xuyết giữa những bông hoa, tạo nên một bức tranh hài hòa giữa sắc đỏ hồng và xanh. Dưới ánh nắng ấm áp, cây đào
như lấp lánh, thu hút ong bướm đến vui đùa, tạo nên khung cảnh sinh động và đầy sức sống.
Hoa Đào (桃花 - hoa đào - 桜 sakura - 벚꽃 ) không chỉ là một loài hoa đẹp mà còn là một biểu tượng văn hóa đẹp đẽ chứa đựng nhiều giá trị tinh thần
sâu sắc về cuộc sống, về thiên nhiên...
Trong đời sống, hoa đào là một món quà quý giá, mang lại
niềm vui, sự bình an và cảm hứng của người Á Đông nói chung và của người Việt Nam nói riêng cho một mùa Xuân mới.
Dưới đây là một số giá trị tinh thần của hoa đào :
1. Biểu tượng của sự tái sinh và hy vọng:
Hoa đào nở vào mùa xuân, mùa của sự khởi đầu mới. Sự xuất hiện của hoa đào báo hiệu sự kết thúc của mùa đông lạnh giá và mở ra một chu kỳ mới tràn đầy sức sống. Vì vậy, hoa đào thường được xem như biểu tượng của sự tái sinh, hy vọng và những điều tốt đẹp phía trước.
2. Vẻ đẹp mong manh và triết lý về cuộc sống:
Hoa đào nở rộ nhưng chỉ tồn tại trong thời gian ngắn, sau đó tàn nhanh. Điều này gợi lên triết lý về sự mong manh, ngắn ngủi của cuộc sống và vẻ đẹp. Nó nhắc nhở con người trân trọng từng khoảnh khắc, sống trọn vẹn và ý nghĩa trong hiện tại.
3. Biểu tượng của tình yêu và hạnh phúc:
Trong văn hóa Á Đông, hoa đào còn được coi là biểu tượng của tình yêu, sự lãng mạn và hạnh phúc. Hoa đào thường xuất hiện trong các câu chuyện tình yêu, thơ ca và nghệ thuật, thể hiện sự ngọt ngào, dịu dàng và bền vững của tình cảm.
4. Sự thanh khiết và tinh thần cao quý:
Màu sắc tinh khôi của hoa đào tượng trưng cho sự thanh khiết, trong sáng và tinh thần cao quý. Nó gợi lên hình ảnh của những giá trị
đạo đức, sự thuần khiết trong tâm hồn và lối sống.
Vẻ đẹp tinh khiết và nhẹ nhàng của hoa đào tượng trưng cho sự thanh cao,
trong sáng và thuần khiết. Điều này phản ánh giá trị thẩm mỹ và tinh thần của người Nhật.
5. Gắn liền với Tết cổ truyền và may mắn:
Tại Việt Nam, hoa đào là một phần không thể thiếu trong ngày Tết Nguyên Đán. Người ta tin rằng hoa đào mang lại may mắn, xua đuổi tà ma và đem đến sự bình an, hạnh phúc cho gia đình trong năm mới. Cành đào đỏ thắm trong nhà cũng tượng trưng cho sự ấm cúng, sum vầy và tài lộc.
6. Sự kết nối với thiên nhiên và vũ trụ:
Hoa đào còn là biểu tượng của sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên. Nó nhắc nhở chúng ta về sự kết nối sâu sắc với vũ trụ,
về quy luật tuần hoàn của đất trời và sự cân bằng trong cuộc sống.
7. Tinh thần vượt qua khó khăn:
Dù hoa đào mỏng manh, nhưng nó vẫn nở rực rỡ giữa tiết trời lạnh giá
cuối đông đầu xuân. Điều này tượng trưng cho tinh thần kiên cường, vượt qua nghịch cảnh của người Nhật.
8. Tinh thần samurai (hiệp sĩ đạo) và lòng trung thành:
Trong văn hóa samurai, hoa đào tượng trưng cho lòng trung thành và sự hy sinh cao cả. Các samurai thường so sánh cuộc đời mình với hoa đào – đẹp nhưng ngắn ngủi, sẵn sàng hy sinh vì lý tưởng.
9. Nguồn cảm hứng nghệ thuật và thi ca:
Hoa đào từ lâu đã trở thành nguồn cảm hứng vô tận cho thi ca, hội họa và âm nhạc. Vẻ đẹp của nó được ca ngợi trong rất
nhiều tác phẩm nghệ thuật, thể hiện sự tinh tế và sâu lắng trong tâm hồn con người.
♣ HOA ĐÀO TRONG THƠ CỦA CÁC THI HÀO TRUNG QUỐC ♣
Hoa đào (桃花) là một trong những biểu tượng văn hóa quan trọng trong thơ ca Trung Quốc, thường gắn liền với vẻ đẹp mùa xuân,
sự thịnh vượng, tình yêu và cả những triết lý sâu xa về cuộc sống.
Một số địa điểm nổi tiếng ở Trung Quốc để ngắm hoa đào:
- Bình Sơn, Bắc Kinh (北京平谷) là "quê hương của hoa đào" với hàng ngàn cây đào nở rộ vào mùa xuân.
- Hồ Tây, Hàng Châu (杭州西湖)Hồ Tây nổi
tiếng với cảnh sắc thiên nhiên tuyệt đẹp, đặc biệt là vào mùa hoa đào nở.
- Giang Tây tại núi Lư sơn (江西庐山) không chỉ nổi tiếng với
phong cảnh hùng vĩ mà còn có những rừng hoa đào rực rỡ.
- Thành Đô, Tứ Xuyên (四川成都).
- Vũ Hán, Hồ Bắc (湖北武汉).
- Quảng Châu, Quảng Đông (广东广州).
- Nam Kinh, Giang Tô (江苏南京).
- Thượng Hải (上海).
- Côn Minh, Vân Nam (云南昆明).
- Quế Lâm, Quảng Tây (广西桂林).
Thời gian ngắm hoa: từ tháng 3 đến tháng 4.
Dưới đây là một số bài thơ nổi
tiếng đề cập đến hoa đào của các thi sĩ Trung Quốc lừng danh:
1. 《桃花溪》 - Đào Hoa Khê - Tác giả: Trương Húc - 张旭 (658 - 747)
隐隐飞桥隔野烟,
石矶西畔问渔船。
桃花尽日随流水,
洞在清溪何处边?
Dịch thơ:
Cầu mờ khuất khói đồng hoang,
Bên kia bến đá hỏi thuyền chài.
Hoa đào trôi suốt ngày dài,
Động đâu bên suối, hỡi ai biết chăng?
(Bản dịch: Ngô Tất Tố)
2. 《桃花》 - Đào Hoa đàm- Tác giả: Lý Bạch - 李白 (701 - 762)
桃花潭水深千尺,
不及汪伦送我情。
Dịch thơ:
Hoa đào rơi xuống đầm sâu ngàn thước,
Cũng không sâu bằng tình bạn Vương Luân tiễn ta.
(Bản dịch: Ngô Tất Tố)
3. 《题都城南庄》 - Đề Đô Thành Nam Trang - Tác giả: Thôi Hộ - 崔护 (772-834)
去年今日此门中,
人面桃花相映红。
人面不知何处去,
桃花依旧笑春风。
Bách niên kim nhật thử môn trung
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng.
Nhân diện bất tri hà xứ khứ,
Đào hoa y cựu tiếu đông phong.
Dịch thơ:
Cửa đây năm ngoái cũng ngày này,
Má phấn, hoa đào ửng đỏ hây.
Má phấn giờ đâu, đâu vắng tá,,
Hoa đào còn bỡn gió xuân đây
(Bản dịch: Tản Đà)
4. 《大林寺桃花》 - Đại Lâm Tự Đào Hoa - Tác giả: Bạch Cư Dị - 白居易 (772-846)
人间四月芳菲尽,
山寺桃花始盛开。
长恨春归无觅处,
不知转入此中来。
Dịch thơ:
Tháng tư hoa đã hết mùa,
Hoa đào rực rỡ cảnh chùa mới nay.
Xuân về kín chốn ai hay,
Biết đâu lẩn khuất trong này núi non.
(Bản dịch: Tản Đà)
5. 《桃花行》 - Đào Hoa Hành - Tác giả: Tào Tuyết Cần - 曹雪芹 (1710一1765)
桃花簾外東風軟,
桃花簾內晨妝懶:
簾外桃花簾內人,
人與桃花隔不遠;
東風有意揭簾櫳,
花欲窺人簾不卷。
桃花簾外開仍舊,
簾中人比桃花瘦;
花解憐人花亦愁,
隔簾消息風吹透。
風透簾櫳花滿庭,
庭前春色倍傷情:
閑苔院落門空掩,
斜日欄杆人自憑。
憑欄人向東風泣,
茜裙偷傍桃花立;
桃花桃葉亂紛紛,
花綻新紅葉凝碧。
霧裹煙封一萬株,
烘樓照壁紅模糊;
天機燒破鴛鴦錦,
春酣欲醒移珊枕。
侍女金盆進水來,
香泉影蘸胭脂冷!
胭脂鮮艷何相類,
花之顏色人之淚,
若將人淚比桃花,
淚自長流花自媚,
淚眼觀花淚易乾,
淚乾春盡花憔悴。
憔悴花遮憔悴人,
花飛人倦易黃昏;
一聲杜宇春歸盡,
寂寞簾櫳空月痕!
Đào Hoa Hành
Đào hoa liêm ngoại đông phong nhuyễn
Đào hoa liêm nội thần trang lãn
Liêm ngoại đào hoa liêm nội nhân
Nhân dữ đào hoa cách bất viễn
Đông phong hữu ý yết liêm lung
Hoa dục khuy nhân liêm bất quyển
Đào hoa liêm ngoại khai nhưng cựu
Liêm trung nhân tỉ đào hoa sấu
Hoa giải liên nhân hoa diệc sầu
Cách liêm tiêu tức phong xuy thấu
Phong thấu liêm lung hoa mãn đình
Đình tiền xuân sắc bội thương tình
Nhàn đài viện lạc môn
không yểm
Tà nhật lan can nhân tự bằng
Bằng lan nhân hướng đông phong khấp
Thiến quần thâu bạng đào hoa lập
Đào hoa đào diệp
loạn phân phân
Hoa trán tân hồng diệp ngưng bích
Vụ khoả yên phong nhất vạn chu
Hồng lâu chiếu bích hồng mô hồ
Thiên cơ
thiêu phá uyên ương cẩm
Xuân hàm dục tỉnh di san chẩm
Thị nữ kim bồn tiến thuỷ lai
Hương tuyền ảnh trám yên chi lãnh
Yên chi
tiên diễm hà tương loại
Hoa chi nhan sắc nhân chi lệ
Nhược tương nhân lệ tỉ đào hoa
Lệ tự trường lưu hoa tự mỵ
Lệ nhãn quan
hoa lệ dị can
Lệ can xuân tận hoa tiều tuỵ
Tiều tuỵ hoa già tiều tuỵ nhân
Hoa phi nhân quyện dịch hoàng hôn
Nhất thanh đỗ
vũ xuân quy tận
Tịch mịch liêm lung không nguyệt ngân.
Tào Tuyết Cần
Những bài thơ trên đều mang vẻ đẹp tinh tế, thể hiện sự giao hòa giữa thiên nhiên và con người, đồng thời gửi gắm những tình cảm sâu lắng,
triết lý nhân sinh. Hoa đào không chỉ là biểu tượng của mùa xuân mà còn là nguồn cảm hứng bất tận trong thơ ca Trung Quốc.
♣ ♣ ♣
♣ HOA ĐÀO TRONG THƠ CỦA CÁC THI NHÂN LỪNG DANH VIỆT NAM ♣
Hoa anh đào phổ biến nhất ở Việt Nam là giống hoa anh đào Nhật Bản (Prunus serrulata), với những cánh hoa màu hồng nhạt đến đậm.
Hoa nở rực rỡ vào mùa xuân, tạo nên khung cảnh thơ mộng.
Hoa anh đào thường nở vào cuối tháng 12 năm trước cho đến giữa tháng 1 năm sau, trùng với dịp Tết Nguyên Đán.
Thời gian nở có thể thay đổi tùy thuộc vào điều kiện thời tiết.
- Hà Nội có nhiều khu vực trồng hoa anh đào, đặc biệt là quanh Hồ Tây, công viên Nhật Tân và một số tuyến phố.
Những cây anh đào trồng ở Hà Nội thường thu hút đông đảo người đến chiêm ngưỡng.
- Khu vực Sapa, Lào Cai cũng nổi tiếng với những cây hoa anh đào nở vào mùa xuân, tạo nên vẻ đẹp huyền ảo giữa núi rừng.
- Ở Mộc Châu, hoa anh đào cũng được trồng và nở rộ vào mùa xuân, thu hút nhiều du khách đến tham qua
Ngoài hoa anh đào Nhật Bản, ở Việt Nam còn có hoa đào (Prunus persica) được trồng phổ biến, thường có màu hồng đậm và nở vào đúng vào những ngày
dịp đầu năm âm lịch.
Hoa đào và hoa anh đào đều mang trong mình những nét đẹp riêng và là một biểu tượng đẹp của mùa xuân và Tết Nguyên Đán
được yêu quý trong văn hóa Việt Nam.
Dưới đây là một số bài thơ nổi tiếng viết về hoa đào của các thi sĩ Việt Nam:
1. “Tống biệt” của Tản Đà (1889-1939)
Tản Đà, có những vần thơ về hoa đào trong Tống Biệt:
“Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai
Suối tiễn, oanh đưa, những ngậm ngùi !
Nửa năm tiên cảnh
Một bước trần ai
Ước cũ duyên thừa có thế thôi !
Đá mòn,rêu nhạt
Nước chảy, huê trôi
Cái hạc bay vút lên tận Trời !
Trời đất từ đây xa cách mãi.
Cửa động
Đầu non,
Đường lối cũ
Nghìn năm thơ thẩn bóng giăng chơi."
Bài thơ thể hiện tâm trạng, cảm xúc của tác giả về tình yêu, những kỷ niệm và sự tiếc nuối trong cuộc sống.
hình ảnh "lá đào rơi" gợi lên một không gian thơ mộng, đầy lãng mạn nhưng cũng rất buồn.
"Thiên Thai" thể hiện một nơi chốn lý tưởng, một thế giới đẹp đẽ nhưng lại xa vời,
trong khi đó "suối tiễn, oanh đưa" mang đến âm thanh của thiên nhiên, như là tiếng lòng đang luyến tiếc.
"Nửa năm tiên cảnh" biểu thị sự ngắn ngủi của hạnh phúc, và "một bước trần ai" là sự đối lập với những khát vọng và ước mơ.
Cuối cùng, "ước cũ duyên thừa có thế thôi" thể hiện sự chấp nhận nuối tiếc, rằng những gì đã qua không thể quay lại.
Bài thơ không chỉ là những câu chữ đơn thuần mà còn chứa đựng những tầng sâu về cảm xúc con người, niềm khao khát, sự tiếc nuối
và những ước mơ chưa thành hiện thực. Tản Đà đã khéo léo kết hợp giữa thiên nhiên và tình cảm để tạo nên một tác phẩm vừa mang
tính triết lý vừa đầy chất thơ.
2. "Ông Đồ" - Vũ Đình Liên (1913-1996)
Vũ Đình Liên thể hiện niềm ngậm ngùi, day dứt về cảnh cũ, người xưa qua "Ông Đồ":
"Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc khen ngợi tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu
Ông Đồ vẫn ngồi đó
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay
Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ "
Ông Đồ là nhân vật đại diện cho những gì đẹp đẽ và thiêng liêng của nền văn hóa Việt Nam nhưng giá trị văn hóa đó
đang bị xói mòn trong nhịp sống hiện đại của xã hội ngày nay.
Bài thơ không chỉ gợi nhớ về hình ảnh ông Đồ mà còn là lời nhắc nhở về việc càn phải gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống
giữa dòng chảy của thời gian.
3. "Mùa hoa đào trên Hồ Tây" - Đoàn Văn Cừ (1913-2004).
Đoàn Văn Cừ đã khắc họa hình ảnh hoa đào như một phần không thể thiếu trong "Mắt biếc môi đào, thuyền rỡn sóng" ở Hồ Tây:
"Hồ Tây đào nở sen tơ liễu,
Ghế đá chiều đầy sắc đỏ vương.
Mắt biếc môi đào, thuyền rỡn sóng,
Nước trời cây cỏ điểm mùi hương."
4. "Nụ cười xuân" - Xuân Diệu (1916-1985).
Xuân Diệu, ông hoàng của thơ tình, cũng không quên nhắc đến hoa đào trong những vần thơ lãng mạn Nụ cười xuân :
“Giữa vườn ánh ỏi tiếng chim vui
Thiếu nữ nhìn sương chói mặt trời
Sao buổi đầu xuân êm ái thế!
Cánh hồng kết những nụ cười tươi.
Ánh sáng ôm trùm những ngọn cao,
Cây vàng rung nắng, lá xôn xao;
Gió thơm phơ phất bay vô ý
Đem đụng cành mai sát nhánh đào
................................”
5. "Hoa đào nở sớm" - Chế Lan Viên (1920-1989).
Chế Lan Viên, một nhà thơ lớn của phong trào Thơ Mới, cũng gửi gắm hình ảnh :
"Hoa đào trước ngõ em qua
Sáng nay bỗng ướm cành hoa vào mùa
Đầy vườn lộc biếc cây tơ
Năm đi chưa hết, đã ngờ xuân đâu
Bỗng dưng một đóa hoa đầu.
Nghe như đất lạ năm nào gặp em
Phải rằng xe xích thời gian
Vầng dương bên ấy mọc sang bên này?
Nắng hoe, bướm trở mình bay
Cành non nở vội kịp ngày chào hoa.
Lòng anh tự độ em qua
Hoa bay bướm dạo cùng ta vào đời”.
"Hoa Đào Nở Sớm" không chỉ đơn thuần là một tác phẩm miêu tả vẻ đẹp của hoa đào mà còn mang những ý nghĩa sâu sắc về tình yêu,
hy vọng và sự hồi sinh của cuộc sống.
Hoa đào là biểu tượng của mùa xuân, mang lại không khí tươi mới và niềm vui cho con người.
Qua từng câu thơ, Chế Lan Viên đã khéo léo gửi gắm tình cảm, niềm khát khao sống và sự trân trọng những điều đẹp đẽ trong cuộc sống.
6. Hoa đào trong thơ Nguyễn Bính (1908-1951).
Nguyễn Bính, cũng là một nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, đã viết về hoa đào với những vần thơ giản dị nhưng đầy cảm xúc:
"Chàng ở nơi đâu? Thiếp ở nhà
Cây đào năm ngoái lại ra hoa
Chân trời rượu uống môi chàng ướt
Cửa sổ mưa bay lệ thiếp nhòa"
(Xuân thương nhớ "
hoặc "Quán trọ":
“Vườn nhà thấp thoáng hoa đào nở
Chị vẫn môi son vẫn má hồng
Áo rét ai đan mà ngóng đợi
Còn vài hôm nữa hết mùa đông
Cột nhà hàng xóm lên câu đối
Em đọc tương tư giữa giấy hồng”
hay "Thôi nàng ở lại":
“Hoa đào từng cánh rơi như tưới
Xuống mặt sân rêu những giọt buồn
Như những tim tình tan vỡ ấy
Nhện già giăng mắc sợi cô đơn”.
Nguyễn Bính đã sử dụng ngôn từ giản dị nhưng giàu hình ảnh, giúp người đọc cảm nhận được nỗi buồn và sự trăn trở
của nhân vật khi phải xa cách người yêu.
Qua đó, những bài thơ vừa mang tính chất lãng mạn vừa chứa đựng những tâm tư sâu lắng của con người
gợi lên sự nhớ nhung, tình yêu và những cảm xúc mãnh liệt với những kỷ niệm đẹp không dễ gì quên được.
...........................................
Hoa đào không chỉ là biểu tượng của mùa xuân, của tình yêu và hạnh phúc, của khát vọng và ước mơ, của nét đẹp truyền thống
mà còn là nguồn cảm hứng bất tận cho các thi sĩ Việt Nam. Những bài thơ nói về hoa đào
thường mang đến cảm giác ấm áp, hy vọng, niềm vui nỗi nhớ ... của một mùa xuân nào đó.
♣ ♣ ♣
♣ HOA ĐÀO TRONG THƠ CỦA CÁC THI GIA BẤT TỬ NHẬT BẢN ♣
Hoa đào (桜, sakura) là biểu tượng văn hóa quan trọng của Nhật Bản, thường xuất hiện trong thơ ca như một biểu tượng của vẻ
đẹp mong manh, sự phù du và sự khởi đầu mới.
Các địa điểm nổi tiếng ở Nhật để ngắm hoa đào:
- Công viên Ueno (Tokyo): Công viên Ueno là một trong những điểm ngắm hoa anh đào nổi tiếng nhất tại Tokyo, với hơn 1.000 cây anh đào dọc
theo con đường chính. Nơi đây thu hút rất đông du khách và người dân địa phương vào mùa hoa nở.
- Công viên Maruyama (Kyoto) : điểm ngắm hoa anh đào nổi tiếng ở Kyoto, đặc biệt là cây anh đào khổng lồ (weeping cherry tree) được chiếu
sáng vào ban đêm, tạo nên khung cảnh lãng mạn.
- Lâu đài Himeji (Hyogo) : một Di sản Thế giới của UNESCO, nơi tuyệt vời để ngắm hoa anh đào.
Hoa nở rộ xung quanh lâu đài tạo nên khung cảnh cổ kính và thơ mộng.
- Công viên Hirosaki (Aomori): nổi tiếng với hơn 2.500 cây anh đào
và lễ hội hoa anh đào hàng năm. Nơi đây cũng có những cây anh đào cổ thụ và cảnh quan tuyệt đẹp với lâu đài Hirosaki.
- Sông Meguro (Tokyo): dọc theo sông Meguro, bạn sẽ tìm thấy hàng trăm cây anh đào nở rộ, tạo nên một con đường hoa tuyệt đẹp.
Đây là địa điểm lý tưởng để đi dạo và chụp ảnh.
- Núi Yoshino (Nara): được coi là một trong những nơi ngắm hoa anh đào đẹp nhất Nhật Bản,
với khoảng 30.000 cây anh đào nở rộ trên các sườn núi. Cảnh quan nơi đây được ví như một biển hoa.
- Công viên Shinjuku Gyoen (Tokyo): một trong những công viên lớn nhất Tokyo, với nhiều loại hoa anh đào khác nhau.
Nơi đây là điểm đến lý tưởng để thưởng ngoạn hoa anh đào trong không gian yên tĩnh.
- Đền Heian (Kyoto) :Okazaki Nishitenno-cho, Sakyo-ku, Kyoto nổi tiếng với khu vườn tuyệt đẹp và những cây anh đào nở rộ vào mùa xuân.
Đặc biệt, hoa anh đào ở đây thường nở muộn hơn so với các khu vực khác.
- Công viên Sumida (Tokyo): nằm dọc theo sông Sumida, là nơi lý tưởng để ngắm hoa anh đào với khung cảnh tháp Tokyo Sky Tree nổi bật phía sau.
- Hồ Kawaguchiko (Yamanashi): là nơi ngươì ta có thể ngắm hoa anh đào với
khung cảnh núi Phú Sĩ hùng vĩ làm nền. Đây là một trong những địa điểm ngắm hoa anh đào đẹp nhất Nhật Bản.
Dưới đây là một số bài thơ nổi tiếng viết về hoa đào của các thi sĩ Nhật Bản, đặc biệt
qua thể loại haiku và tanka:
1. Matsuo Bashō 松尾 芭蕉 (1644-1694).
Matsuo Bashō là một trong những nhà thơ haiku lớn nhất của Nhật Bản. Ông thường viết về thiên nhiên và sự thoáng qua của thời gian.
Bài thơ:
花の雲
鐘は上野か
浅草か
Hana no kumo
Kane wa Ueno ka
Asakusa ka
Dịch nghĩa:
Mây hoa đào
Tiếng chuông từ Ueno hay
Từ Asakusa?
Ý nghĩa:
Bashō miêu tả cảnh hoa đào nở rộ như những đám mây, và tiếng chuông chùa vang lên từ xa, tạo nên một không gian thiền định và phù du.
2. Kobayashi Issa 小林 一茶 (1763-1828).
Kobayashi Issa là một nhà thơ haiku nổi tiếng với phong cách giản dị và gần gũi với đời sống thường nhật.
Bài thơ:
桜散る
また会う日まで
さようなら
Sakura chiru
Mata au hi made
Sayōnara
Dịch nghĩa:
Hoa đào rơi
Hẹn ngày tái ngộ
Tạm biệt nhé.
Ý nghĩa:
Bài thơ thể hiện sự lưu luyến trước cảnh hoa đào rơi, gợi lên sự chia ly và hy vọng về cuộc gặp gỡ trong tương lai.
3. Yosa Buson 与謝 蕪村 (1716-1784).
Yosa Buson là một nhà thơ và họa sĩ nổi tiếng, thơ của ông thường mang tính hội họa và giàu hình ảnh.
Bài thơ:
花の陰
あかの他人は
なかりけり
Hana no kage
Aka no tanin wa
Nakarikeri
Dịch nghĩa:
Dưới bóng hoa
Không có người lạ nào
Chỉ có ta.
Ý nghĩa:
Buson miêu tả khoảnh khắc tĩnh lặng dưới tán hoa đào, nơi không có sự hiện diện của người lạ, chỉ có sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên.
4. Masaoka Shiki 正岡 子規 (1867-1902).
Masaoka Shiki là một nhà thơ tiên phong trong việc cách tân thơ haiku và tanka.
Bài thơ:
桜散る
木のもとにて
春の月
Sakura chiru
Ki no moto nite
Haru no tsuki
Dịch nghĩa:
Hoa đào rơi
Dưới gốc cây
Trăng mùa xuân.
Ý nghĩa:
Shiki khắc họa hình ảnh hoa đào rơi dưới ánh trăng mùa xuân, tạo nên một khung cảnh đẹp nhưng đượm buồn.
5. Tanka về hoa đào
Tanka là thể thơ cổ điển của Nhật Bản, gồm 5 dòng với cấu trúc 5-7-5-7-7 âm tiết.
Bài thơ:
桜花
散りゆく中に
立ち止まり
春の名残を
惜しむ心
Sakurabana
Chiriyuku naka ni
Tachidomari
Haru no nagori wo
Oshimu kokoro
Dịch nghĩa:
Hoa đào nở
Giữa lúc cánh hoa rơi
Ta dừng bước
Tiếc nuối dấu vết xuân
Trong lòng bồi hồi.
Ý nghĩa:
Bài thơ thể hiện sự tiếc nuối trước sự phai tàn của mùa xuân và vẻ đẹp thoáng qua của hoa đào.
Những bài thơ về hoa đào của các thi gia Nhật không chỉ ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn gửi gắm triết lý về sự vô
thường và ý nghĩa của cuộc sống.
♣ ♣ ♣
♣ HOA ĐÀO TRONG THƠ CỦA CÁC THI NHÂN LỪNG DANH HÀN QUỐC♣
Hoa đào벚꽃 (đào hoa) là một biểu tượng văn hóa quan trọng trong thơ ca cổ điển của Hàn Quốc.
Hoa đào xuất hiện như một hình ảnh đẹp đẽ thanh khiết, tượng trưng của mùa xuân, của một vẻ đẹp thoáng qua hay tình yêu lãng mạn
hoặc nỗi buồn của sự cô đơn, chia ly và cả sự mong manh của kiếp người.
Những bài thơ cổ điển Hàn Quốc có nhắc đến hoa đào thường là những bài thơ về mùa xuân, tình yêu, hoặc sự hoài niệm.
Trong thơ của các nhà thơ thời kỳ Cao Ly (Goryeo) hoặc thời kỳ Triều Tiên (Joseon), hoa đào thường xuất hiện như một phần của bức tranh
thiên nhiên đẹp đẽ nhưng đầy cảm xúc qua các thời kỳ lịch sử.
Ví dụ, trong thơ của nhà thơ Yun Seon-do (1587-1671) trong
thời kỳ Joseon, hoa đào cũng xuất hiện như một phần của cảnh sắc thiên nhiên,
gợi lên sự bình yên và vẻ đẹp tinh khiết.
Cũng vào thời kỳ Joseon này
bài thơ trong chuyện "Chunhyangjeon 춘향전 " (Truyện Chunhyang) một cuốn tiểu thuyết kinh điển nổi tiếng nhất của Hàn Quốc
dưới dạng truyện kể (pansori) hoặc thơ với
4 phiên bản khác nhau ,
khoảng 20 loại bản thảo, 50 loại phiên bản in và 6 hoặc 7 loại bản dịch. "Chunhyangjeon 춘향전" thuật lại
về câu chuyện tình yêu của nàng Chunhyang (Xuân Hương) và chàng Lee Mong-ryong (Lý Mông)
, hoa đào được nhắc đến như một biểu tượng của tình yêu
và sự trong trắng.
Dưới đây là một đoạn thơ trích từ tác phẩm Truyện " Chunhyang 춘향전" :
춘향가
"남원 고을에 봄이 오니,
꽃이 피고 새가 운다.
춘향이는 아름다운 꽃처럼,
몽룡이는 그 꽃을 사랑하네.
둘의 사랑은 깊고도 깊어,
하늘보다 높고 바다보다 넓다.
그러나 세상의 이치가 어려워,
둘은 이별의 길을 걷게 되네.
춘향아, 몽룡아,
이별의 아픔을 견디며,
진실한 사랑을 지키리라.
다시 만날 그 날을 기다리며."
dịch nghĩa :
Chunhyangjeon
Xuân Hương, người con gái đẹp,
Mẹ nàng là kỹ nữ, phận nghèo long đong.
Mộng Xuân gặp chàng Lý Mông,
Áo xanh, dáng ngọc, tình nồng trao nhau.
Lời thề non nước vững bền,
Nhưng chàng phải theo lệnh triều đình xa quê.
Xuân Hương đợi chốn làng quê,
Lòng son sắt, chẳng hề lay chuyển.
Quan huyện mới, kẻ tham tàn,
Ép duyên Xuân Hương, nàng liền cự ngay.
Gông cùm, đòn roi thẳng tay,
Nàng vẫn một lòng, chẳng khuất thân oan.
May sao Lý Mông trở về,
Quan thanh liêm, cứu nàng qua cơn nguy.
Tình xưa nghĩa cũ trọn bề,
Xuân Hương, Lý Mông, duyên kề bên nhau.
Đoạn thơ trên là một phiên bản ngắn gọn và hiện đại hóa của câu chuyện "춘향전", thể hiện tình yêu sâu sắc và sự đau khổ của Chunhyang và Mong-ryong khi họ phải đối mặt với sự chia ly. Tác phẩm gốc được viết bằng văn xuôi và thơ, kết hợp giữa ngôn ngữ Hàn Quốc cổ điển và hiện đại.
Hoa đào (đào hoa) là một biểu tượng văn hóa và thi ca quan trọng trong văn học Hàn quốc bao gồm cả 2 thời kỳ Cao Ly (918-1392)
và Triều Tiên (1392-1897).
Dưới đây là một số khía cạnh về hình ảnh hoa đào trong thơ ca thời kỳ Cao Ly. Trong thơ ca thời kỳ này,
hoa đào thường xuất hiện như một biểu tượng của vẻ đẹp, nét quyến rũ, sự mong manh và sự thoáng qua của cuộc sống ẩn dụ cho vòng
luân hồi và sự vô thường của vạn vật.
Một số bài thơ cổ điển Hàn Quốc nhắc đến hoa đào thường là những bài thơ về mùa xuân, tình yêu, hoặc sự hoài niệm.
Ví dụ, trong thơ của các nhà thơ thời kỳ Cao Ly (Goryeo 고려 – 918-1392) hoặc Triều Tiên (Joseon조선 - từ 1392 tới 1897) ,
hoa đào thường xuất hiện như một phần của bức tranh thiên nhiên đẹp đẽ nhưng đầy cảm xúc.
A. Thời kỳ Cao Ly- (918-1392) :
Mặc dù nhiều tác phẩm thơ ca thời kỳ Cao Ly đã bị thất lạc, nhưng một số bài thơ còn sót lại vẫn phản ánh hình ảnh hoa đào.
Trong các bài thơ của các nhà sư hoặc học giả ở thời kỳ này, hoa đào thường xuất hiện như một phần của cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp,
gợi lên sự thanh bình và tĩnh lặng nhưng cũng ẩn chứa sự tiếc nuối trước sự phai tàn của nó.
Điển hình, trong bài thơ "hoa đào" của Đại sư Hyegeo (혜거, 慧炬) được người Hàn quốc tôn là Quốc sư, bảo tháp của Quốc sư Hyegeo hiện
còn tại dưới chân sườn núi ở phía tây của Đền Mangwolsa núi Dobongsan trong vùng Gyeonggi-do.
봄이 오면 복숭아꽃이 피고,
봄이 가면 복숭아꽃이 진다.
인생도 이와 같아,
아침에 피고 저녁에 시든다."
dịch :
"Xuân đến hoa đào nở,
Xuân đi hoa đào rơi.
Đời người cũng như thế,
Sớm nở tối tàn phai."
Bài thơ thể hiện sự thoáng qua của cuộc đời qua những bông đào mùa xuân. Hoa nở khi mùa xuân đến, nhưng cũng như hoa tàn khi mùa xuân đi qua, cuộc sống cũng chứa đựng sự phù du của buổi sáng nở và tàn vào buổi tối. Sự xuất hiện và biến mất của hoa đào được coi như một ẩn dụ cho vòng luân hồi và sự vô thường của vạn vật.
Bài thơ khác về "Hoa đào" của nhà sư Hyegeo là một tác phẩm nổi tiếng trong văn học Phật giáo Hàn Quốc. Dưới đây là nguyên tác và bản dịch
tiếng Việt:
Nguyên tác:
桃花日日紅
桃葉日日綠
桃花年年開
桃葉年年綠
Bản dịch tiếng Việt:
Hoa đào ngày ngày đỏ
Lá đào ngày ngày xanh
Hoa đào năm năm nở
Lá đào năm năm xanh
Bài thơ thể hiện sự tuần hoàn của thiên nhiên, sự vĩnh cửu của vòng đời và sự bất biến trong sự biến đổi. Hoa đào và lá đào tượng trưng cho sự sống, sự tái sinh và sự liên tục của vạn vật trong vũ trụ. Nhà sư Hyegeo muốn nhắc nhở chúng ta về sự vô thường và sự hiện hữu của mọi thứ trong cuộc
Hình ảnh hoa đào trong thơ ca thời kỳ Cao Ly không chỉ là một biểu tượng thẩm mỹ mà còn mang ý nghĩa triết lý sâu sắc, phản ánh tư tưởng và cảm xúc của con người thời đại đó.
B. Thời kỳ Triều Tiên - Joseon (1392-1897) :
Trong thơ ca Triều Tiên hoa đào xuất hiện như một biểu tượng giàu ý nghĩa,
thường gắn liền với cảm xúc về thiên nhiên, tình yêu, và triết lý nhân sinh.
Dưới đây là một số khía cạnh về hình ảnh hoa đào trong thơ ca Triều Tiên thời kỳ này:
1. Vẻ đẹp thoáng qua của hoa đào
Hoa đào thường nở vào mùa xuân, mang vẻ đẹp rực rỡ nhưng ngắn ngủi. Các nhà thơ Triều Tiên thường dùng hình ảnh
hoa đào để nói về sự phù du của cuộc sống, sự mong manh của tuổi trẻ và vẻ đẹp. Ví dụ, trong thơ của Yi Saek (이색, 1328-1396),
hoa đào được miêu tả như một biểu tượng của sự tươi đẹp nhưng chóng tàn, gợi lên nỗi buồn về thời gian trôi qua.
2. Hoa đào và tình yêu
Hoa đào cũng thường xuất hiện trong những bài thơ tình, tượng trưng cho vẻ đẹp của người phụ nữ và tình yêu lãng mạn.
Các nhà thơ Triều Tiên thường so sánh vẻ đẹp của người yêu với hoa đào, vừa thanh khiết vừa quyến rũ.
Ví dụ, trong thơ của Kim Si-seup (김시습, 1435-1493), hoa đào được dùng để diễn tả nỗi nhớ nhung và sự say đắm trong tình yêu.
3. Hoa đào và triết lý nhân sinh
Hoa đào còn là biểu tượng của sự giác ngộ trong triết lý Phật giáo và Đạo giáo. Các nhà thơ Triều Tiên thời kỳ Joseon,
chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo, Phật giáo, và Đạo giáo, thường dùng hoa đào để nói về sự vô thường của cuộc đời. Hoa đào nở rồi tàn,
như một lời nhắc nhở về sự chuyển biến không ngừng của vạn vật.
4. Hoa đào trong thơ Sứ Thần
Trong thơ của các sứ thần Triều Tiên sang Trung Quốc, hoa đào xuất hiện như một hình ảnh gợi nhớ quê hương.
Những bài thơ này thường mang nỗi niềm hoài cảm, khi các sứ thần nhìn hoa đào nơi đất khách mà nhớ về quê nhà.
♣ Một bài thơ tiêu biểu của Yi Hwang (이황, 1501-1570), một nhà thơ và nhà Nho học nổi tiếng thời Joseon, đã viết về hoa đào như sau:
"복숭아꽃이 흩날려 땅에 가득히 떨어지고,
봄바람이 불어 흩날려 허공으로 사라지네.
인생은 예로부터 누가 죽지 않았던가,
흐르는 물이 끝에 이르러도 다시 돌아올 수 없네."
"Đào hoa phiêu phiêu lạc mãn địa,
Xuân phong xuy tán nhập không trì.
Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủy đáo đầu bất khả kỳ."
Dịch nghĩa:
"Hoa đào rơi rải rác khắp mặt đất,
Gió xuân thổi bay vào hư không.
Đời người từ xưa ai không chết,
Như nước chảy về đầu nguồn không thể ngăn."
Bài thơ thể hiện triết lý về sự vô thường của cuộc sống, với hình ảnh hoa đào rơi như một ẩn dụ cho sự ngắn ngủi của kiếp người.
♣ Jeong Ji-sang (정지상, 鄭知常, ? - 1135) là một nhà thơ, học giả và chính trị gia nổi tiếng thời Cao Ly (Goryeo) của Hàn Quốc.
Ông được biết đến với những bài thơ mang đậm triết lý và cảm xúc sâu sắc, thường phản ánh tình yêu thiên nhiên, nỗi niềm nhân sinh và tâm
trạng u uẩn. Dưới đây là một số đặc điểm nổi bật trong thơ của Jeong Ji-sang:
- Tình yêu thiên nhiên: Thơ của Jeong Ji-sang thường miêu tả cảnh sắc thiên nhiên một cách tinh tế, thể hiện sự gắn bó sâu sắc
với đất trời. Ông sử dụng hình ảnh núi non, sông nước, hoa lá để truyền tải cảm xúc và triết lý sống.
- Triết lý nhân sinh: Thơ ông thường chứa đựng những suy tư về cuộc đời, sự vô thường và ý nghĩa của kiếp người.
Ông nhìn nhận cuộc sống với con mắt thấu hiểu và chiêm nghiệm.
- Tâm trạng u uẩn: Nhiều bài thơ của Jeong Ji-sang thể hiện nỗi buồn sâu lắng, sự cô đơn và nỗi niềm khó giải bày.
Điều này có thể liên quan đến bối cảnh chính trị phức tạp thời bấy giờ và số phận bi thảm của chính ông.
1.
- Ngôn ngữ tinh tế, giàu hình ảnh: Thơ ông sử dụng ngôn ngữ giản dị nhưng giàu sức gợi, kết hợp với những hình ảnh mang
tính biểu tượng cao, tạo nên sức hấp dẫn và chiều sâu cho tác phẩm.
Một trong những bài thơ nổi tiếng của Jeong Ji-sang là "Đêm xuân trên sông" (춘강야월, 春江夜月), thể hiện rõ phong cách và
tư tưởng của ông:
춘강야월
봄 강가에 달이 뜨니,
꽃 그림자 물에 비치네.
사람들은 모두 즐겁다 하지만,
나만은 어찌 이리도 외로운가.
Dịch thơ:
Trăng lên trên bến xuân,
Hoa in bóng nước ngần.
Người đời vui hớn hở,
Riêng ta sao lạnh lùng.
Bài thơ phản ánh sự tương phản giữa niềm vui của thiên hạ và nỗi cô đơn của tác giả, thể hiện tâm trạng u uẩn và sự chiêm nghiệm
về cuộc đời.
Thơ Jeong Ji-sang không chỉ là tiếng lòng của một cá nhân mà còn là tấm gương phản chiếu xã hội và thời đại ông đang sống,
mang giá trị nghệ thuật và nhân văn sâu sắc.
취한 후
진홍빛 복숭아꽃 비 아래, 새들이 지저귀며 노래한다
집 주변, 푸른 산이 푸른 안개 속에서 흐릿하게 보인다
머리에 검은 스카프를 대충 둘렀다
취해 꽃밭에서 잠들고, 강남을 꿈꾼다.
dịch nghĩa
Sau khi say
Dưới cơn mưa hoa đào đỏ thắm, chim ríu rít hót
Quanh nhà, núi xanh mờ ảo trong làn sương biếc
Chiếc khăn đen trên đầu không buồn chỉnh tề
Say khướt, ngủ trên bờ hoa, mơ về Giang Nam.
(Bản dịch cố gắng giữ lại tối đa cách diễn đạt mang tính thơ ca của nguyên tác, nhưng do sự khác biệt ngôn ngữ, có thể khó truyền
tải hoàn toàn chính xác sắc thái tương tự.)
♣ Yun Seon-do (1587–1671) là một nhà thơ, học giả và là một vị quan nổi tiếng thời Joseon của Hàn Quốc. Ông được biết đến với những tác phẩm thơ ca trữ tình, tinh tế, đặc biệt là những bài thơ về thiên nhiên và cảnh vật bốn mùa. Một trong những chủ đề yêu thích của ông là hoa đào, loài hoa tượng trưng cho vẻ đẹp mong manh và sự thoáng qua của cuộc sống.
Trong các bài thơ của ông, hoa đào (hay đào hoa) thường xuất hiện như một biểu tượng của vẻ đẹp thoáng qua, sự mong manh và quyến rũ của thiên nhiên. Hoa đào trong thơ Yun Seon-do thường gắn liền với mùa xuân, sự khởi đầu mới và vẻ đẹp tinh khiết.
Một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Yun Seon-do là "Eouyadam" (어우야담), trong đó ông thể hiện sự kết nối sâu sắc với thiên nhiên. Mặc dù không có bài thơ cụ thể nào của ông chỉ tập trung vào hoa đào, nhưng hình ảnh hoa đào thường xuất hiện trong bối cảnh mùa xuân, như một phần của khung cảnh thiên nhiên sống động mà ông miêu tả.
Dưới đây là Bài thơ hoa đào của Yun Seon-do, thể hiện sự tinh tế và cảm xúc sâu sắc của ông:
복숭아 꽃에 관한 시
봄 한가운데 복숭아 꽃이 만발하네,
꽃잎은 구름결처럼 살랑살랑.
연분홍 빛깔에 은은한 향기,
사람의 마음을 설레게 하며 그리움을 자아내네.
한 순간 피었다가 한 순간 지고,
인생도 꽃잎 날리듯 흩어지네.
복숭아 꽃은 아름답지만 빨리 시들어,
우리에게 덧없는 인생을 상기시켜 주네.
dịch nghĩa
Bài thơ hoa đào
Hoa đào nở rộ giữa mùa xuân,
Cánh hoa nhẹ nhàng như làn mây.
Sắc hồng phớt nhẹ, hương thoảng qua,
Lòng người xao xuyến, nhớ thương xa.
Một thoáng nở rồi, một thoáng tàn,
Đời người cũng tựa cánh hoa bay.
Hoa đào đẹp đẽ, nhưng chóng phai,
Nhắc nhở ta về kiếp phù du này.
Yun Seon-do không chỉ ca ngợi vẻ đẹp của hoa đào mà còn gợi lên những triết lý sâu sắc về cuộc đời và sự vô thường .
Hoa đào, với vẻ đẹp mong manh và ngắn ngủi, trở thành biểu tượng của sự quý giá và thoáng qua của thời gian.
Sau đây là bài thơ "Khi mùa xuân đến" của Yun Seon-do, được dịch nghiã sang
tiếng Việt để quý bạn tham khảo:
봄이 오면
(원제: 봄이 오면)
봄이 오면, 복숭아꽃이 만개하고,
제비가 푸른 하늘을 날아다닌다.
작은 시냇물이 졸졸 흐르며 노래하고,
푸른 풀은 바람에 따라 길게 펼쳐진다.
사람의 마음도 봄과 같아서,
따뜻하고, 기쁘며, 생기가 넘친다.
함께 새로운 봄을 맞이하자,
마음이 더욱 편안하고 평화로워지도록.
dịch nghĩa
Khi mùa xuân đến
Mùa xuân đến, hoa đào nở rộ,
Cánh chim én lượn trên bầu trời xanh.
Dòng suối nhỏ róc rách hát ca,
Cỏ non xanh mướt trải dài theo gió.
Lòng người cũng như mùa xuân ấy,
Ấm áp, tươi vui và tràn đầy sức sống.
Hãy cùng nhau đón chào mùa xuân mới,
Để tâm hồn thêm nhẹ nhàng, thanh thản.
Thơ của Yun Seon-do thường mang đậm chất trữ tình, thể hiện tình yêu thiên nhiên và sự giao hòa giữa con người với vũ trụ.
Hy vọng những bài thơ trên đã mang đến cho bạn cảm nhận sâu sắc về mùa xuân qua ngòi bút của ông!
♣ Yeoam Kang Se-hwang (1713-1791): nhà thơ, họa sĩ, và học giả nổi tiếng thời Joseon mà tác phẩm của ông thường phản ánh sự
tinh tế trong cách cảm nhận cuộc sống và nghệ thuật. Bài thơ "Tranh hoa đào" của Yeoam Kang Se-hwang là một tác phẩm nổi tiếng trong văn
học Hàn Quốc, thể hiện vẻ đẹp tinh tế và sâu lắng của thiên nhiên cũng như tâm hồn con người. Bài thơ mang đậm chất trữ tình,
thể hiện sự hòa quyện giữa thiên nhiên và cảm xúc con người.
"Tranh hoa đào" (도화도, 桃花圖) một thi phẩm nổi tiếng trong văn học Hàn Quốc.
Dưới đây là nguyên tác bài thơ bằng tiếng Hàn:
꽃은 어이 하여 봄이 지나도록
꽃다운 빛을 뉘우치며 피는고
사람은 어이 하여 늙도록
사람다운 일을 아니 하여는고
Phiên âm Hán-Việt:
Hoa thị hà dĩ xuân quá trứ
Hoa đống sắc vi nhuế hối trì phỉ hồ
Nhân thị hà dĩ lão trứ
Nhân đống sự vi an nhan hà hồ
Dịch nghĩa tiếng Việt:
Hoa sao lại để mùa xuân qua đi
Màu hoa đẹp đẽ lại hối tiếc mà nở muộn
Người sao lại để già đi
Mà không làm những việc đáng làm của con người
Bài thơ thể hiện sự suy ngẫm về cuộc đời và thời gian, qua hình ảnh hoa đào nở muộn sau khi mùa xuân đã qua, tác giả nhắc nhở về
việc sống có ý nghĩa và không để thời gian trôi qua một cách vô ích.
Hoa đào trong thơ ca Triều Tiên thời kỳ Joseon không chỉ là một hình ảnh thiên nhiên đẹp đẽ mà còn mang nhiều tầng ý nghĩa sâu sắc về tình yêu,
thời gian, và triết lý nhân sinh. Qua đó, các nhà thơ đã gửi gắm những suy tư về cuộc đời và vẻ đẹp mong manh của kiếp người.
Hàn Quốc nổi tiếng với những lễ hội hoa anh đào vào mùa xuân, thu hút du khách từ khắp nơi trên thế giới. Dưới đây là một số địa điểm ngắm hoa anh đào nổi tiếng ở Hàn Quốc:
1. Jinhae (진해) – Changwon: Lễ hội hoa anh đào Jinhae: Đây là lễ hội hoa anh đào lớn nhất Hàn Quốc, thường diễn ra vào cuối tháng 3 đến đầu tháng 4. Địa điểm nổi tiếng nhất là đường tàu hỏa Gyeonghwa (경화역) và cầu Yeojwacheon (여좌천).
Đặc điểm: Hàng ngàn cây anh đào nở rộ dọc theo con đường và dòng suối, tạo nên khung cảnh lãng mạn.
2. Seoul: Công viên Yeouido (여의도공원): Nằm trên đảo Yeouido, công viên này là một trong những địa điểm ngắm hoa anh đào nổi tiếng nhất ở Seoul. Lễ hội hoa anh đào Yeouido thường diễn ra vào đầu tháng 4. Con đường dài 1.7 km với hàng trăm cây anh đào nở rộ, tạo nên một đường hầm hoa tuyệt đẹp.
3. Busan : Công viên Dalmaji (달맞이공원): Nằm trên đồi Dalmaji, công viên này là một địa điểm lý tưởng để ngắm hoa anh đào và cảnh biển. Hoa anh đào nở rộ trên đồi, kết hợp với tầm nhìn ra biển, tạo nên một khung cảnh độc đáo.
4. Gyeongju (경주): Hồ Bomun (보문호): Hồ Bomun là một địa điểm ngắm hoa anh đào nổi tiếng ở Gyeongju, thường diễn ra vào đầu tháng 4. Hoa anh đào nở rộ quanh hồ, tạo nên một khung cảnh yên bình và thơ mộng.
5. Jeju Island (제주도): Công viên Hallim (한림공원): Đảo Jeju không chỉ nổi tiếng với cảnh đẹp tự nhiên mà còn là nơi lý tưởng để ngắm hoa anh đào vào mùa xuân. Hoa anh đào ở Jeju thường nở sớm hơn so với các khu vực khác, thường vào cuối tháng 3.
6. Daegu (대구): Công viên Dalseong (달성공원): Công viên này là một địa điểm ngắm hoa anh đào nổi tiếng ở Daegu, thường diễn ra vào đầu tháng Hoa anh đào nở rộ trong công viên, tạo nên một không gian lãng mạn và yên bình.
7. Incheon (인천): Công viên Songdo Central (송도센트럴파크): Công viên này là một địa điểm ngắm hoa anh đào nổi tiếng ở Incheon, thường diễn ra vào đầu tháng 4.Hoa anh đào nở rộ quanh hồ, tạo nên một khung cảnh đẹp như tranh vẽ.
8. Gangneung (강릉): Công viên Gyeongpo (경포공원): Nằm gần bãi biển Gyeongpo, công viên này là một địa điểm ngắm hoa anh đào nổi tiếng ở Gangneung, thường diễn ra vào đầu tháng 4.
Hoa anh đào nở rộ quanh hồ Gyeongpo, tạo nên một khung cảnh yên bình và thơ mộng.
9. Jeonju (전주): Công viên Deokjin (덕진공원): Công viên này là một địa điểm ngắm hoa anh đào nổi tiếng ở Jeonju, thường diễn ra vào đầu tháng 4
Hoa anh đào nở rộ quanh hồ Deokjin, tạo nên một khung cảnh đẹp như tranh vẽ.
10. Suwon (수원): Công viên Hwaseong Haenggung (화성행궁): Công viên này là một địa điểm ngắm hoa anh đào nổi tiếng ở Suwon, thường diễn ra vào đầu tháng 4.
Hoa anh đào nở rộ trong công viên, tạo nên một không gian lãng mạn và yên bình.
Những địa điểm này không chỉ là nơi lý tưởng để ngắm hoa anh đào mà còn là cơ hội để trải nghiệm văn hóa và lễ hội đặc sắc của Hàn Quốc.
♣ ♣ ♣
Hoa đào (hoa đào - 桃花 - 桜 sakura - 벚꽃) biểu tượng của sự mong manh, nét tinh khôi, thanh khiết, lòng trung thành, sự hy sinh cao cả,
sự kết nối với thiên nhiên vũ trụ, sự tái sinh, niềm hy vọng và cũng là của sự vô thường ngắn ngủi của cuộc đời ... đã và vẫn sẽ luôn luôn
là một nguồn cảm hứng bất tận
cho nền văn hóa và thi ca trong văn học Á đông.
-/.
Khai bút đầu năm Ất Tỵ tại La Sérénité - 29.01.2025-13.35
với nhiều tài liệu tra khảo trên internet
VVM.02.2.2025.

石矶西畔问渔船。
桃花尽日随流水,
洞在清溪何处边?
Bên kia bến đá hỏi thuyền chài.
Hoa đào trôi suốt ngày dài,
Động đâu bên suối, hỡi ai biết chăng?
(Bản dịch: Ngô Tất Tố)
不及汪伦送我情。
Cũng không sâu bằng tình bạn Vương Luân tiễn ta.
(Bản dịch: Ngô Tất Tố)
人面桃花相映红。
人面不知何处去,
桃花依旧笑春风。
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng.
Nhân diện bất tri hà xứ khứ,
Đào hoa y cựu tiếu đông phong.
Má phấn, hoa đào ửng đỏ hây.
Má phấn giờ đâu, đâu vắng tá,,
Hoa đào còn bỡn gió xuân đây
(Bản dịch: Tản Đà)
山寺桃花始盛开。
长恨春归无觅处,
不知转入此中来。
Hoa đào rực rỡ cảnh chùa mới nay.
Xuân về kín chốn ai hay,
Biết đâu lẩn khuất trong này núi non.
(Bản dịch: Tản Đà)
桃花簾內晨妝懶:
簾外桃花簾內人,
人與桃花隔不遠;
東風有意揭簾櫳,
花欲窺人簾不卷。
桃花簾外開仍舊,
簾中人比桃花瘦;
花解憐人花亦愁,
隔簾消息風吹透。
風透簾櫳花滿庭,
庭前春色倍傷情:
閑苔院落門空掩,
斜日欄杆人自憑。
憑欄人向東風泣,
茜裙偷傍桃花立;
桃花桃葉亂紛紛,
花綻新紅葉凝碧。
霧裹煙封一萬株,
烘樓照壁紅模糊;
天機燒破鴛鴦錦,
春酣欲醒移珊枕。
侍女金盆進水來,
香泉影蘸胭脂冷!
胭脂鮮艷何相類,
花之顏色人之淚,
若將人淚比桃花,
淚自長流花自媚,
淚眼觀花淚易乾,
淚乾春盡花憔悴。
憔悴花遮憔悴人,
花飛人倦易黃昏;
一聲杜宇春歸盡,
寂寞簾櫳空月痕!
Đào hoa liêm nội thần trang lãn
Liêm ngoại đào hoa liêm nội nhân
Nhân dữ đào hoa cách bất viễn
Đông phong hữu ý yết liêm lung
Hoa dục khuy nhân liêm bất quyển
Đào hoa liêm ngoại khai nhưng cựu
Liêm trung nhân tỉ đào hoa sấu
Hoa giải liên nhân hoa diệc sầu
Cách liêm tiêu tức phong xuy thấu
Phong thấu liêm lung hoa mãn đình
Đình tiền xuân sắc bội thương tình
Nhàn đài viện lạc môn không yểm
Tà nhật lan can nhân tự bằng
Bằng lan nhân hướng đông phong khấp
Thiến quần thâu bạng đào hoa lập
Đào hoa đào diệp loạn phân phân
Hoa trán tân hồng diệp ngưng bích
Vụ khoả yên phong nhất vạn chu
Hồng lâu chiếu bích hồng mô hồ
Thiên cơ thiêu phá uyên ương cẩm
Xuân hàm dục tỉnh di san chẩm
Thị nữ kim bồn tiến thuỷ lai
Hương tuyền ảnh trám yên chi lãnh
Yên chi tiên diễm hà tương loại
Hoa chi nhan sắc nhân chi lệ
Nhược tương nhân lệ tỉ đào hoa
Lệ tự trường lưu hoa tự mỵ
Lệ nhãn quan hoa lệ dị can
Lệ can xuân tận hoa tiều tuỵ
Tiều tuỵ hoa già tiều tuỵ nhân
Hoa phi nhân quyện dịch hoàng hôn
Nhất thanh đỗ vũ xuân quy tận
Tịch mịch liêm lung không nguyệt ngân.
Tào Tuyết Cần

Suối tiễn, oanh đưa, những ngậm ngùi !
Nửa năm tiên cảnh
Một bước trần ai
Ước cũ duyên thừa có thế thôi !
Đá mòn,rêu nhạt
Nước chảy, huê trôi
Cái hạc bay vút lên tận Trời !
Trời đất từ đây xa cách mãi.
Cửa động
Đầu non,
Đường lối cũ
Nghìn năm thơ thẩn bóng giăng chơi."
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc khen ngợi tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu
Ông Đồ vẫn ngồi đó
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay
Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ "
Ghế đá chiều đầy sắc đỏ vương.
Mắt biếc môi đào, thuyền rỡn sóng,
Nước trời cây cỏ điểm mùi hương."
Thiếu nữ nhìn sương chói mặt trời
Sao buổi đầu xuân êm ái thế!
Cánh hồng kết những nụ cười tươi.
Ánh sáng ôm trùm những ngọn cao,
Cây vàng rung nắng, lá xôn xao;
Gió thơm phơ phất bay vô ý
Đem đụng cành mai sát nhánh đào
................................”
Sáng nay bỗng ướm cành hoa vào mùa
Đầy vườn lộc biếc cây tơ
Năm đi chưa hết, đã ngờ xuân đâu
Bỗng dưng một đóa hoa đầu.
Nghe như đất lạ năm nào gặp em
Phải rằng xe xích thời gian
Vầng dương bên ấy mọc sang bên này?
Nắng hoe, bướm trở mình bay
Cành non nở vội kịp ngày chào hoa.
Lòng anh tự độ em qua
Hoa bay bướm dạo cùng ta vào đời”.
Cây đào năm ngoái lại ra hoa
Chân trời rượu uống môi chàng ướt
Cửa sổ mưa bay lệ thiếp nhòa"
(Xuân thương nhớ "
Chị vẫn môi son vẫn má hồng
Áo rét ai đan mà ngóng đợi
Còn vài hôm nữa hết mùa đông
Cột nhà hàng xóm lên câu đối
Em đọc tương tư giữa giấy hồng”
Xuống mặt sân rêu những giọt buồn
Như những tim tình tan vỡ ấy
Nhện già giăng mắc sợi cô đơn”.
鐘は上野か
浅草か
Hana no kumo
Kane wa Ueno ka
Asakusa ka
Tiếng chuông từ Ueno hay
Từ Asakusa?
また会う日まで
さようなら
Sakura chiru
Mata au hi made
Sayōnara
Hẹn ngày tái ngộ
Tạm biệt nhé.
あかの他人は
なかりけり
Hana no kage
Aka no tanin wa
Nakarikeri
Không có người lạ nào
Chỉ có ta.
木のもとにて
春の月
Sakura chiru
Ki no moto nite
Haru no tsuki
Dưới gốc cây
Trăng mùa xuân.
散りゆく中に
立ち止まり
春の名残を
惜しむ心
Sakurabana
Chiriyuku naka ni
Tachidomari
Haru no nagori wo
Oshimu kokoro
Giữa lúc cánh hoa rơi
Ta dừng bước
Tiếc nuối dấu vết xuân
Trong lòng bồi hồi.
"남원 고을에 봄이 오니,
꽃이 피고 새가 운다.
춘향이는 아름다운 꽃처럼,
몽룡이는 그 꽃을 사랑하네.
둘의 사랑은 깊고도 깊어,
하늘보다 높고 바다보다 넓다.
그러나 세상의 이치가 어려워,
둘은 이별의 길을 걷게 되네.
춘향아, 몽룡아,
이별의 아픔을 견디며,
진실한 사랑을 지키리라.
다시 만날 그 날을 기다리며."
Xuân Hương, người con gái đẹp,
Mẹ nàng là kỹ nữ, phận nghèo long đong.
Mộng Xuân gặp chàng Lý Mông, Áo xanh, dáng ngọc, tình nồng trao nhau.
Lời thề non nước vững bền,
Nhưng chàng phải theo lệnh triều đình xa quê.
Xuân Hương đợi chốn làng quê,
Lòng son sắt, chẳng hề lay chuyển.
Quan huyện mới, kẻ tham tàn,
Ép duyên Xuân Hương, nàng liền cự ngay.
Gông cùm, đòn roi thẳng tay,
Nàng vẫn một lòng, chẳng khuất thân oan.
May sao Lý Mông trở về,
Quan thanh liêm, cứu nàng qua cơn nguy.
Tình xưa nghĩa cũ trọn bề,
Xuân Hương, Lý Mông, duyên kề bên nhau.
봄이 가면 복숭아꽃이 진다.
인생도 이와 같아,
아침에 피고 저녁에 시든다."
Xuân đi hoa đào rơi.
Đời người cũng như thế,
Sớm nở tối tàn phai."
桃葉日日綠
桃花年年開
桃葉年年綠
Lá đào ngày ngày xanh
Hoa đào năm năm nở
Lá đào năm năm xanh
봄바람이 불어 흩날려 허공으로 사라지네.
인생은 예로부터 누가 죽지 않았던가,
흐르는 물이 끝에 이르러도 다시 돌아올 수 없네."
Xuân phong xuy tán nhập không trì.
Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủy đáo đầu bất khả kỳ."
Gió xuân thổi bay vào hư không.
Đời người từ xưa ai không chết,
Như nước chảy về đầu nguồn không thể ngăn."
봄 강가에 달이 뜨니,
꽃 그림자 물에 비치네.
사람들은 모두 즐겁다 하지만,
나만은 어찌 이리도 외로운가.
Hoa in bóng nước ngần.
Người đời vui hớn hở,
Riêng ta sao lạnh lùng.
진홍빛 복숭아꽃 비 아래, 새들이 지저귀며 노래한다
집 주변, 푸른 산이 푸른 안개 속에서 흐릿하게 보인다
머리에 검은 스카프를 대충 둘렀다
취해 꽃밭에서 잠들고, 강남을 꿈꾼다.
Dưới cơn mưa hoa đào đỏ thắm, chim ríu rít hót
Quanh nhà, núi xanh mờ ảo trong làn sương biếc
Chiếc khăn đen trên đầu không buồn chỉnh tề
Say khướt, ngủ trên bờ hoa, mơ về Giang Nam.
봄 한가운데 복숭아 꽃이 만발하네,
꽃잎은 구름결처럼 살랑살랑.
연분홍 빛깔에 은은한 향기,
사람의 마음을 설레게 하며 그리움을 자아내네.
한 순간 피었다가 한 순간 지고,
인생도 꽃잎 날리듯 흩어지네.
복숭아 꽃은 아름답지만 빨리 시들어,
우리에게 덧없는 인생을 상기시켜 주네.
Hoa đào nở rộ giữa mùa xuân,
Cánh hoa nhẹ nhàng như làn mây.
Sắc hồng phớt nhẹ, hương thoảng qua,
Lòng người xao xuyến, nhớ thương xa.
Một thoáng nở rồi, một thoáng tàn,
Đời người cũng tựa cánh hoa bay.
Hoa đào đẹp đẽ, nhưng chóng phai,
Nhắc nhở ta về kiếp phù du này.
(원제: 봄이 오면)
봄이 오면, 복숭아꽃이 만개하고,
제비가 푸른 하늘을 날아다닌다.
작은 시냇물이 졸졸 흐르며 노래하고,
푸른 풀은 바람에 따라 길게 펼쳐진다.
사람의 마음도 봄과 같아서,
따뜻하고, 기쁘며, 생기가 넘친다.
함께 새로운 봄을 맞이하자,
마음이 더욱 편안하고 평화로워지도록.
Mùa xuân đến, hoa đào nở rộ,
Cánh chim én lượn trên bầu trời xanh.
Dòng suối nhỏ róc rách hát ca,
Cỏ non xanh mướt trải dài theo gió.
Lòng người cũng như mùa xuân ấy,
Ấm áp, tươi vui và tràn đầy sức sống.
Hãy cùng nhau đón chào mùa xuân mới,
Để tâm hồn thêm nhẹ nhàng, thanh thản.
꽃다운 빛을 뉘우치며 피는고
사람은 어이 하여 늙도록
사람다운 일을 아니 하여는고
Hoa đống sắc vi nhuế hối trì phỉ hồ
Nhân thị hà dĩ lão trứ
Nhân đống sự vi an nhan hà hồ
Màu hoa đẹp đẽ lại hối tiếc mà nở muộn
Người sao lại để già đi
Mà không làm những việc đáng làm của con người
Khai bút đầu năm Ất Tỵ tại La Sérénité - 29.01.2025-13.35 với nhiều tài liệu tra khảo trên internet