D ù rằng con người rất yêu mùa Hè với những tia nắng ấm áp, ngập tràn khắp nơi, nên đến mùa là mọi người kéo nhau ra biển để được thả mình tung tăng trên biển xanh, nô đùa cùng sóng biếc, hoặc tổ chức những chuyến dã ngoại thú vị để khám phá những phong cảnh thiên nhiên hay những nơi mà mình yêu thích. Rồi thì mùa Thu với những khu vườn trang điểm cho mình bằng những cành lá chuyển sang màu vàng rực rỡ, thả từng đợt lá theo những cơn gió, làm thành những thảm lá vàng rực cả một khu vườn, đẹp đến nao lòng! Bao nhiêu người đã rung cảm rồi dùng ngôn ngữ của mình mà ca tụng. Thi sĩ, thì dệt những vần thơ mượt mà. Nhạc sĩ sáng tác những bản nhạc với giai điệu du dương, da diết. Nhà làm phim thì dùng bối cảnh của thiên nhiên lồng vào đó những chuyện tình lãng mạn… làm người thưởng thức không khỏi mơ màng, thấy hồn như lâng lâng, thoát tục… Nhưng phải nói mùa Xuân mới là mùa mà mọi người mong đợi, bởi không chỉ là cỏ cây đâm chồi nẩy lộc, hoa cũng phô hết sắc hương, mà mọi người từ bao giờ đã quy định với nhau để lấy những ngày đầu Xuân làm mốc cho mọi diễn biến, cũng như mơ ước cho năm sắp tới được tốt đẹp, nên mọi thứ đều được chuẩn bị hết sức là chu đáo, mọi người đều háo hức đón chờ.
Nếu Mùa Hè, Mùa Thu là lúc mà con người được nghỉ ngơi, nên sắp xếp rời ngôi nhà với nếp sống thường nhật để có thời gian riêng tư, sống cho bản thân. Họ dùng thời gian đó để thư giãn và nạp năng lượng để tiếp tục cuộc hành trình mưu sinh, thì trái lại, Mùa Xuân là mùa của sum họp. Các thành viên trong gia đình ngày thường tung ra khắp nơi để làm ăn, nhưng ngày Tết đều tìm cách quay về đoàn tụ với gia đình, với người thân, nên ngày Tết mang một ý nghĩa thật là đặc biệt. Ngoài thiên nhiên tươi mới điểm tô bằng những sắc hoa rực rỡ, nhà nào cũng dọn dẹp, trang hoàng, trưng bày lộng lẫy, đồ ăn, thức uống tràn ngập, khác hẳn ngày thường, thì sự hiện diện của những thành viên sau cả năm dài xa cách cũng làm cho không khí gia đình rộn rã, ấm áp hẳn lên. Không chỉ gói gọn trong khuôn viên của mỗi gia đình, mà khắp nơi mọi người cũng vui tươi, hớn hở khác thường. Nhờ những lời dặn dò kiêng khem cho những ngày đầu năm nên mọi người cũng cư xử với nhau nhẹ nhàng và và thanh lịch hơn.
Đó là thời điểm mà thiên nhiên và con người đều sung mãn và hào phóng nhất. Thiên nhiên thì ban lộc cho cây cối, cỏ hoa. Con người thì cũng ban phát niềm vui, tặng nhau quà cáp, tài lộc, lời chúc tốt lành. Tiếc thay, chỉ được có vài ngày rồi tất cả trở lại như cũ, làm cho ai có suy nghĩ cũng không khỏi ước ao giá mà cả năm đều được như thế, có phải là cuộc sống ở trần gian này tươi đẹp biết bao nhiêu!
Không phải đợi đến tuổi đời chồng chất, mỏi gót bon chen con người mới có thì giờ chiêm nghiệm cuộc đời để thấy tất cả sao mà phù du, mộng ảo, rồi mơ ước làm sao để có một niềm vui vĩnh cửu không bao giờ tàn lụi mà không cần sự hỗ trợ của cảnh vật, của thiên nhiên. Trước đây đến mấy ngàn năm Đức Thích Ca là người đã thấy được nhu cầu đó của con người, nên đã bỏ ra một đời để truyền bá cách thức thực hiện điều đó. Tiếc thay những lời Ngài dạy ngày càng bị hiểu lầm để ý tưởng tuyệt vời đó bị biến thể thành một Tôn Giáo để cầu xin Giáo Chủ ban cho, mà không phải là mỗi người phải cố gắng tự lực để đạt được như Ngài mong mỏi.
Thật vậy, thử kiểm điểm Giáo Pháp của Đạo Phật chúng ta sẽ thấy: Dù được thành lập cách đây cả mấy ngàn năm, nhưng trong đó không phải là một mớ lý thuyết cao siêu, mơ hồ, mà là cả một quy trình rất khoa học để giải quyết cuộc sống, qua những trình tự:
l. Lý giải về những nỗi Khổ của cuộc đời.
2. Giải pháp để có cuộc sống tốt đẹp cho không chỉ kiếp này, mà còn vô lượng kiếp về sau.
Theo Đức Thích Ca, kể từ lúc bắt đầu ý thức về bản thân, lúc nào con người cũng thấy rằng: “Đây là ta. Đây là cha, mẹ, vợ, chồng, con cái, nhà cửa, đất đai, gia sản của ta”. Rồi do còn sống là còn nhu cầu. Ngoài ăn uống, nhà cửa, vật dụng, phương tiện, con người luôn muốn mở rộng cơ ngơi, tìm cầu đủ thứ để cung ứng cho mọi nhu cầu của bản thân và gia đình. Chưa có thì đấu tranh cho có. Có rồi thì muốn kiếm thêm. Có đủ dùng thì muốn những thứ tốt hơn, sang hơn. Cuộc sống lại ngày càng khó khăn, vì thế, để kiếm sống, mọi người đã hành xử theo hai cách: Người lương thiện thì kiếm sống một cách chân chính, bằng khả năng, bằng sức lao động của mình, không lừa đảo, chèn ép, lấn át người khác. Người bất lương thì tìm mọi cách để đạt được những thứ mình muốn, bất kể thủ đoạn bất chính. Những người này gây rối loạn cho xã hội không ít, nên xã hội phải đặt ra luật pháp để ngăn ngừa và trừng trị.
Cũng chính vì nghĩ rằng “chết là hết” nên nhiều người sẵn sàng lấn át người khác để được lợi về phần mình, không biết rằng những việc xấu hay tốt đều không mất. Vì thế, lúc vay thì vui vẻ, thích thú, đến lúc phải trả lại oán trời, trách đất, cho là ông trời đối xử bất công với mình. Tại sao người khác luôn gặp vận may, còn mình thì rủi ro cứ đeo bám! Chưa hết, ngoài những nỗi Khổ do ngoại cảnh mang tới, tự thân mỗi người cũng có những nỗi Khổ vì Già, Bệnh, và cuối cùng là cái Chết là điều không tránh khỏi và đáng sợ nhất, vì phải xa lìa những người thương yêu, nhất là không biết sẽ về đâu?
Để không gặp phải những cảnh bất như ý diễn ra với cuộc đời của mỗi người, Đức Thích Ca vạch ra một con đường và bày ra phương cách để giải quyết một cách hợp lý nhất để người chịu tin theo quan sát, tìm hiểu, thực hành sẽ có một cuộc sống an vui, không bị cảnh khổ hành hạ nữa. Con đường đó gọi là ĐẠO PHẬT.
Phật dạy: Té ngã ở đâu thì đứng lên từ đó. Con người đã bị cuộc đời làm Khổ thì phải nhìn nó cho rõ, xem nó có gì để mình phải Khổ vì nó.
Quan sát cuộc đời thì ai cũng thấy: Đã có mặt trên đời thì mọi người đều phải sống. Nhưng tại sao cùng do cha mẹ sinh ra, cùng là một kiếp người mà người thì giàu trong trứng giàu ra, kẻ mấy đời vẫn đói rách lầm than?! Rồi thì kẻ đẹp, người xấu, kẻ thọ, người yểu, kẻ sang, người hèn, kẻ xấu, người tốt... mà trong xã hội luôn diễn ra những hình ảnh tương phản đủ kiểu khác nhau? Có cách nào thay đổi, đem lại sự bình đẳng được không?
Sau một thời gian dài quán sát, Đức Thích Ca thấy được nguyên do của những dị biệt, và tìm ra giải pháp chính xác nhất. Theo Ngài, những điều tốt hay xấu, giàu hay nghèo, thọ hay yểu diễn ra không phải do Thượng Đế hay Thần Linh nào cầm cân, nẩy mực, mà do kết quả của chính việc làm của mỗi người gọi là NHÂN QUẢ. Gieo gì thì gặt nấy. Làm tốt được tốt. Làm xấu được xấu. Không có người cầm nắm để bỏ sót, do đó không thể dùng cách này cách khác để xin bớt hay nài thêm. Như vậy, người nào muốn thay đổi số phận thì phải xét tận gốc của vấn đề để thấy cho rõ, rồi theo hướng dẫn của Đạo Phật mà làm những việc để hóa giải thì mới thay đổi cuộc đời được.
Trước hết, người muốn thay đổi số phận được dạy phân tích cuộc đời. Theo Đức Thích Ca, “Đời là Bể Khổ”, “Nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước trong biển cả”. Ngài liệt kê những Nỗi Khổ và cách thức để hóa giải ra thành TỨ DIỆU ĐẾ. Trong đó, KHỔ ĐẾ nói về những cái KHỔ của kiếp người là: SINH KHỔ, LÃO KHỔ, BỆNH KHỔ và TỬ KHỔ. Người thương yêu mà phải xa Kẻ oán ghét lại phải gặp gỡ. Cầu không được. Có rồi lại mất… đều là những nỗi Khổ mà cái Thân người phải gánh chịu.
Rồi do không bỏ được thói quen cung phụng cho Lục Căn những thứ nó ham muốn là Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp. Phật gọi đó là TẬP ĐẾ. Chính những điều đó làm cho con người ngày càng dính vào cái Thân không thể xa rời rồi gây thêm nhiều Nghiệp chướng.
Muốn hết Khổ thì phải dùng DIỆT ĐẾ để hóa giải. DIỆT ĐẾ không phải là diệt hết Lục Căn đi. Mắt không nhìn, Tai không nghe. Xa lánh hương, vị, những cuộc tiếp xúc với các Pháp, mà những người hiểu lầm đã phải dùng đến mấy trăm GIỚI để làm rào cản, không cho các pháp đến gần. Trong khi đó, Đạo Phật chân chính thì đốn gốc, tìm ngay chính thủ phạm, thuyết phục nó bằng những lý lẽ để nó chấp nhận mà thay đổi gọi là Điều Phục hay Chuyển Hóa nó. Đó là cái VỌNG TÂM.
Thế nào là cái VỌNG TÂM? Tìm nó ở đâu?
Do Đạo Phật được mở ra từ thời xa xưa, ngôn ngữ chưa gần với thời này, nên nhiều người đọc Kinh thấy xa lạ, bỡ ngỡ. Thật ra gọi là VỌNG TÂM chỉ là những Ý TƯỞNG SAI LẦM mà thôi. Sao gọi là sai lầm? Vì đánh giá không đúng. Cái không phải là TA mà cho đó là TA rồi chịu sự điều khiển của nó mà làm nhiều hành động sai quấy gọi là TẠO NGHIỆP.
Theo Đức Thích Ca, Cái THÂN không phải là TA, mà nó chỉ là CÁI THÂN NGHIỆP CỦA TA. Do kiếp trước ta làm nhiều việc, tốt có, xấu có. Mỗi việc đều có Nhân Quả. Vì thế, khi Thân trước hết Nghiệp, hết Duyên mà trở về cùng cát bụi thì lại phải nhận một cái Thân mới, cũng bằng ĐẤT, NƯỚC, GIÓ, LỬA gọi là TỨ ĐẠI kết hợp lại với nhau để ở trong đó mà tiếp tục trả những gì đã gieo. Trong thời gian TRẢ NGHIỆP cũ, mỗi người lại tạo thêm NGHIỆP MỚI, vì thế VÒNG LUÂN HỒI không dứt. Hết Sinh lại Tử, Tử rồi Sinh. Tu theo Đạo Phật tức là tìm cách để cắt đứt VÒNG LUÂN HỒI.
Đức Thích Ca mô tả VÒNG LUÂN HỒI bằng THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN, trong đó VÔ MINH là mối chủ chốt. Bao giờ hết VÔ MINH thì vòng này sẽ tan rã, kết thúc Sinh Tử Luân Hồi.
Nhưng người quán sát lại gặp một số nghi vấn: Rõ ràng gai đâm, lửa đốt thì đau. Cảm sương, cảm nắng thì bệnh. Gặp cảnh trái lòng thì đau khổ. Thực dưỡng đúng thì mạnh khỏe, sai thì ốm yếu gầy gò, hoặc sinh nhiều thứ bệnh, sao lại cho rằng không phải Ta?
Đạo Phật không chối bỏ hoàn toàn cái Thân, mà cho nó là Cái THÂN do Nghiệp chiêu tập mà ta tạm thời cư ngụ trong đó, không phải thật là Ta. Vì nó có những cái độc lập, ta không thể điều khiển đươc. Nếu là Ta thì ta có muốn cho mình xấu xí, bệnh, già, chết hay không? Chắc chắn ai cũng muốn khỏe mạnh, đẹp đẽ, không già, không chết. Nhưng nó cứ lầm lũi theo hướng mà nó hoạch định sẵn. Thậm chí vì muốn nó cứ sống mãi với ta nên cưng chiều nó hết mực, đáp ứng tất cả yêu cầu của nó. Vì ai mà ta phải chạy ngược chạy xuôi, học hành, làm lụng vất vả để kiếm sống? Chính là vì nó, vì thiếu thực phẩm là nó không tồn tại được. Vì ai mà đôi khi ta bất nhân bất nghĩa, luồn lọt cầu cạnh để kiếm chút danh, cho nó được ăn trên, ngồi trước, được mọi người trọng vọng? Vì ai mà ta cất nhà cao, cửa rộng, sắm xe đời mới, dinh cơ đồ sộ để cạnh tranh với người khác? Tất cả là vì nó. Vì nó nhìn thấy người khác rồi so sánh, rồi muốn bằng, muốn hơn mọi người. Nhưng rồi thì nó làm được gì? Nó cứ thản nhiên mà Già, mà Bệnh, mà Chết, bất kể lời van nài của ta!
Xưa có một vị vua lâm bệnh nặng, thấy mình chẳng còn sống được bao lâu, nên ra lệnh tập trung tất cả những nhà thông thái trong nước, kêu họ viết cho vua hiểu về kiếp sống của con người. Họ làm việc cật lực để viết. Đầu tiên chất đầy mấy xe. Vua bảo họ tóm gọn lại. Họ gom lại thành một xe. Vua kêu gọn nữa, gọn nữa... cuối cùng chỉ còn một câu: Con người sinh ra là để chết! Đó là một thực tế, từ ngàn đời vẫn thế. Không ai có thể duy trì cho cái Thân tồn tại mãi được.
Vậy thì nếu cái Thân chỉ sống rồi để chết tại sao ta phải cung phụng cho nó tất cả những yêu cầu vượt quá sức của mình để phải chạy đôn chạy đáo mà lo, trong khi nó chỉ cần không bị đói, không bị lạnh, không bị mưa gió tấn công và không bị bệnh hoạn hành hạ? Nhà to như cung điện thì cũng chỉ cần một phòng để ngủ nghỉ. Long sàng hay chiếc vạt tre thì cũng chỉ để ngả lưng, cần gì phải sang trọng, đắt tiền? Bao nhiêu sơn hào hải vị thì cũng chỉ cần đầy cái bao tử. Chính vì nạp vào cơ thể quá nhiều chất bổ dưỡng đôi khi lại sinh ra đủ thứ bệnh, nào là gút, tiểu đường, mỡ máu... đe dọa cuộc sống? Tại sao lại phải giết những động vật để ăn thịt tươi, trong khi chúng cũng biết quý mạng sống, cũng có vợ chồng, sinh con, đẻ cái? Phải chăng vì cung phụng cho cái Khẩu mà ta đã làm nhiều điều gây tổn hại cho những sinh vật khác? Vì muốn sắm cho gia đình những phương tiện đắt tiền mà ta phải bóc lột những người yếu thế hơn mình, lợi dụng chức quyền để chèn ép cấp dưới, làm nhiều người bất mãn. Một căn nhà có đủ tiện nghi là đủ, thì cớ gì ta phải tranh chấp ranh đất với hàng xóm để nới rộng thêm? Đất nước khắp thế giới do tiền nhân để lại, đã được xác định ranh giới từ nhiều đời, tại sao nhiều nước lại ỷ mạnh cử binh lấn chiếm đất nước láng giềng để gây họa cho dân lành, gây ra bao cảnh tang thương, chết chóc, làm vợ phải xa chồng, con phải mất cha để rồi những gia đình thiếu đi người đàn ông trụ cột, người vợ lại phải vất vả mưu sinh, đàn con nheo nhóc, lớn lên thiếu giáo dục của cha mẹ lại trở thành gánh nặng cho xã hội! Bao nhiêu người đang tuổi thanh xuân, chưa nếm trải cuộc sống đã phải tức tưởi xa lìa cuộc đời do tham vọng bành trướng của mình mà không thấy đó là tội ác trời không dung đất không tha? Tất cả cũng vì nghĩ rằng cuộc đời sẽ kéo dài, muốn tìm thêm để thụ hưởng, cho bản thân, cho gia đình, cho đất nước mình! Nhưng lịch sử đã chứng minh: Bao nhiêu biển cả giờ đã thành đất liền. Nhiều thành phố bị chôn vùi. Nhiều đế chế hùng mạnh cũng đã suy tàn. Bao lớp người rồi cũng đi vào quên lãng… cho ta thấy Đạo Phật nói đúng: Vô Thường tác động lên tất cả những gì có tướng. Không có gì bền vững trong cuộc đời.
Nhưng không phải Đạo Phật đưa Vô Thường ra để chúng ta yếm thế, chán nản, buông xuôi hết, không muốn làm ăn, học hành chi nữa! Ngược lại, học Vô Thường để thấy rằng cuộc sống không kéo dài mà làm những việc cần thiết không để thời gian trôi qua một cách vô ích. Học Vô Ngã để đừng vì cái Ta mà tranh giành, lấn át người khác, làm cho họ phải đau khổ. Nhờ học những điều đó, con người sẽ sống một cách xứng đáng hơn. Trong gia đình thì con cháu biết rằng ông bà, cha mẹ sẽ ra đi không biết ngày nào, nên không làm những điều để cho họ phiền lòng, trái lại, yêu thương, chăm sóc họ, vì biết họ đã một đời hy sinh cho mình. Cha mẹ cũng biết rằng không biết xa con ngày nào nên cũng cố gắng dồn tình yêu thương và giáo dục con cho nó nên người. Vợ chồng sẽ yêu thương, nhường nhịn nhau vì biết sẽ không ở bên nhau mãi. Bạn bè cũng sẽ trân trọng cái duyên được gặp nhau mà cư xử với nhau cho hết lòng, vì một khi mất Thân này thì muôn kiếp khó gặp lại.
Nhưng việc tìm cái TÂM dính líu gì đến Vô Thường, Vô Ngã, đến Tham, Sân Si?
Chính vì không biết ta đang bị cái VỌNG TÂM nó điều khiển, nên không biết cái Thân này là VÔ THƯỜNG, VÔ NGÃ mà Tham, muốn tranh giành nhiều thứ tốt đẹp về cho mình. Không giành được thì Sân, do đó mà Phật dạy rằng ngoài cái Thân Vô Thường này, ta còn một cái CHÂN TÂM, tức cái Thân trường tồn, không bị giới hạn bởi thời gian, không gian. Thân này mới là THẬT MÌNH. Nó Vô Tướng nên không bị Sinh, Diệt, vui, buồn, được, mất... làm ảnh hưởng. Tìm được nó gọi là gặp được BỔN THỂ TÂM hay là CHÂN TÁNH. Trụ ở đó thì không bị các Tướng Hữu Vi làm ảnh hưởng đến nữa, nhờ đó có được sự an ổn, thường lạc, mà Đạo Phật gọi là Hữu Dư Y Niết Bàn.
Đúc kết cuộc đời của một con người ta sẽ thấy: Sau bao nhiêu vinh quang, tủi nhục, thành công, thất bại, thì điều mà con người cần tìm không phải là danh vọng, tiền tài, vì những thứ đó có rồi mất. Đến rồi đi. Cái mọi người cần tìm là một gia đình đầm ấm, một cuộc sống an lành, không bị đe dọa bởi thiên tai, nhân tai, tật ách, không bị truy đuổi bởi kẻ thù, bởi luật pháp. Con cái chăm ngoan, hiếu hạnh. Muốn có được điều đó cũng không khó. Chỉ cần mỗi người nương nhau mà sống một cách chân chính.
Cuộc đời chẳng được bao nhiêu năm mà cứ phải đối đầu với đủ thứ chuyện. Trầy trật học xong, lấy được tấm bằng thì kiếm được một việc làm cũng hết hơi, lương chỉ vửa đủ sống, muốn báo hiếu cho cha mẹ cũng không phải dễ! Muốn kinh doanh để làm giàu thì bị lừa đảo hay mùa màng thất bát rồi không những trắng tay lại kèm thêm món nợ đã vay! Đang yên lành thì bị họa chiến tranh xảy đến, bom rơi, đạn lạc, gia đình chia lìa, tang tóc khắp nơi, nước mắt sinh ly, tử biệt chảy tràn… Chính vì vậy mà con người mơ về một Bồng Lai tiên cảnh. Nơi đó không có giết chóc, hận thù, lừa đảo. Cảnh đẹp, người lại xinh. Tiên đồng, ngọc nữ không nhọc nhằn kiếm sống, ngày ngày chỉ thảnh thơi múa hát. Tiên ông, tiên bà thì nhàn hạ, túi thơ, bầu rượu, cuộc cờ... Hoặc có người chán đời, đi vào hang sâu để ẩn tu, tránh xa cảnh trần. Không ẩn tu thì ly gia, cắt ái, vô Chùa sống đời tu sĩ, cho là rũ sạch bụi trần… Không biết rằng TU chỉ có một nghĩa là SỬA. Mỗi người cần SỬA cái TÂM của mình để nó không còn dắt mình làm những chuyện sai quấy nữa.
Thật vậy. Nhiều người nghĩ rằng muốn tu Phật là phải làm những việc vĩ đại phi thường, nên muốn lánh cõi trần vì đầy ô uế, con người thì xấu xa, độc ác. Trong khi đó, tu theo Chánh Pháp thì chỉ cần mỗi người quay vào tu sửa Thân, Tâm của mình. Chẳng cần xa rời cuộc đời, cũng chẳng cần phải gồng mình để Giữ hàng mấy trăm Giới, Ngồi Thiền giờ này sang giờ khác, mà việc tu hành rất là đơn giản như lời Lục Tổ dạy:
“Lòng bình đẳng đâu cần giữ Giới ?
Làm việc ngay há đợi tu Thiền ?
Ân song thân hiếu dưỡng cần chuyên
Nghĩa huynh đệ dưới trên tương ái…”
Đúng thế. Tu Phật đâu phải là để xa lánh hay thay đổi cuộc đời, mà là để nhìn rõ cuộc đời với những diễn biến của nó, chấp nhận nó, rồi Sửa cái TÂM của mình, thay đổi những nhận thức, hành vi của mình để tiếp tục sống giữa cảnh trần mà không bị bụi trần làm cho ô nhiễm, gọi là Giải Thoát hay Thành Phật. Nếu có xem kỹ 32 Tướng Tốt, 80 vẻ đẹp của Phật được mô tả, ta thấy đó chỉ là những cách cư xử giữa con người và con người với nhau. Nhưng vì biết con người vốn ham đạt những gì cao siêu, phi thường, nên Phật phương tiện nói người làm những điều đó gọi là “chạm khắc tượng Phật”, mục đích chỉ để những người ham làm Thánh, làm Phật theo đó mà thực hiện để bản thân và mọi người chung quanh được an ổn, hạnh phúc mà thôi.
Khi con người thực hiện những điều mà Đạo Phật hướng dẫn sẽ có được cái Tâm bình ổn, làm chủ mọi suy nghĩ, hành vi của mình. Lúc đó dù vẫn nhìn thấy các pháp tốt, xấu diễn ra mà không bị nó tác động nữa gọi là NHƯ THỊ. Rồi cũng chính vì cuộc đời còn đầy nhiễu nhương, đau khổ, nên cần lắm những bàn tay góp nhau xây dựng. Cần lắm những Bác sĩ, Lương y để chữa bệnh. Những vị Thầy dạy chữ, dạy đạo đức, đào tạo nghề nghiệp để con trẻ lớn lên biết yêu ông bà cha mẹ, yêu đất nước, và có phương kế sinh nhai, để không vì dốt nát, vô công, rồi nghề, túng quẩn mà trở thành tội phạm, làm rối loạn xã hội vừa hại chính bản thân, gia đình. Là một công dân, hưởng mọi thành quả của nhiều thành phần trong xã hội, ta phải có trách nhiệm với cuộc đời, thì nỡ nào đứng bên lề hay chui vào Chùa, nấp sau cửa Chùa để yên ổn tấm thân, mong thành Thánh, thành Phật, bỏ mặc cuộc đời cho người khác mặc tình xây dựng hay tàn phá. Như vậy sao gọi là đền TỨ ÂN? Người xưa đã nói: “Dục tu tiên đạo, tiên tu nhân đạo. Dục tu Phật Đạo, tiên tu Tiên Đạo”. Làm người chưa xong trách nhiệm, làm sao đòi thành Tiên, thành Phật? Đành rằng người dân nước ta có truyền thống tín ngưỡng rất cao. Nhưng đất nước đã có quá nhiều Chùa, tượng Phật. Thiết nghĩ việc xây Chùa, đúc tượng, đâu có cần thiết bằng trợ vốn cho người nghèo, hay xây Bệnh viện, Trường học, đào tạo nhân tài, tương lai xây dựng đất nước. Xây Cầu, làm Đường để mọi người có phương tiện đi lại, làm ăn sinh sống để bớt đi phần nào nỗi khổ của cuộc đời. Điều đó thiết thực hơn. Là Đệ tử Phật, người tu càng cần thực hiện hạnh QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT, “lắng nghe tiếng kêu khổ của chúng sinh”, và Thiên Thủ Thiên Nhãn Bồ Tát. “Có ngàn con mắt” là để nhìn thấy cảnh khổ của chúng sinh khắp nơi. “Có ngàn tay” là để cứu độ cho mọi người khi họ cần giúp đỡ. Đó cũng là “cứu độ chúng sinh”, hay “cúng dường những vị Phật sẽ thành”. Nếu ta chưa hiểu điều đó để thực hiện sao gọi là làm Hạnh Bồ Tát? Vì những việc đó đâu phải để Phật làm? Hơn nữa, người tu được học Tứ Vô Lượng Tâm, đâu có phải để Vô Tâm mà vô cảm trước nỗi đau của cuộc đời!
Khi tất cả mọi người đều quay vô lo tu sửa được cái tâm, lòng tràn an lạc, sống đúng trách nhiệm của một con người, biết yêu thương, giúp đỡ người khác, thì cảnh thái bình sẽ diễn ra khắp nơi. Trong gia đình thì trên thuận dưới hòa. Con cháu hiếu kính ông bà cha mẹ. Vợ chồng yêu thương chăm sóc cho nhau. Mọi người sống vui vẻ với nhau, trong nhà luôn ấm áp, đầy ắp tiếng cười. Gia đình đã thế, hàng xóm láng giềng cũng thuận thảo, giúp đỡ lẫn nhau, không ai xâm phạm của ai... Nếu được nhân ra thì cả xã hội tốt đẹp biết mấy. Mọi người ý thức trách nhiệm của mình, tích cực học hỏi khoa học kỹ thuật tiên tiến của thế giới để phụng sự đất nước. Khi nước này không xâm lấn nước khác thì thay vì mua máy bay, tàu chiến, vũ khí để chuẩn bị đánh nhau thì dành ngân sách đó để xây dựng và phát triển đất nước. Các nhà Khoa Học cũng thôi không chế tạo vũ khí giết người, mà chế tạo thuốc men để chế ngự bệnh tật, máy móc hỗ trợ cho ngành công nghiệp, nông nghiệp. Nguồn nhân lực trẻ dành cho chiến tranh thì để sản xuất, kiến tạo đất nước. Nước giàu giúp cho nước nghèo. Người khỏe nâng đỡ người yếu. Người hạnh phúc san sẻ cho người bất hạnh… Khi tâm hồn mỗi người nở đầy hoa nhân ái, mọi người nhìn nhau là anh em, không phân chia màu da, lãnh thổ. Lúc đó hẳn khắp nơi đều được sống trong hòa bình, an lạc. Vực nước mắt bị tát cạn, thì trần gian vốn đã đẹp bởi thiên nhiên xanh tốt cộng thêm lòng người hòa ái chỉ có yêu thương nhau đã biến thành Tiên cảnh, Niết Bàn, mọi người yên ổn sống với những chuỗi ngày hạnh phúc, êm đềm, thư thả cho đến hết kiếp. Như thế thì quanh năm lúc nào chẳng là Mùa Xuân đâu còn phải tưởng tượng, tìm kiếm đâu cho xa vời?. /.