Việt Văn Mới
Việt Văn Mới
      


THE BIRTH OF VIETNAM
DỊCH VÀ NGẪM NGHĨ
(Thay lời dịch giả)



       kỳ 2

X ưng mình là Hoàng đế đầu tiên, Tần Thủy Hoàng đế mặc nhiên “xổ toẹt” tất cả truyền thống đã bị nhiễm văn hóa Việt trước đó để lập lại một truyền thống hoàn toàn mới của người Trung quốc.

Sao vậy?

Thì trong truyền thống cũ, các ông “đế” của chủng dân văn hóa du mục nhiễm văn hóa Việt và bắt chước người Việt xưng vương; các ông đế cũ trước đó được gọi tên theo trật tự ngữ pháp tiếng Việt, những Đế Thuấn, Đế Nghiêu, Đế Minh, Đế Lai... không còn “thuần túy” nữa. Từ đó, từ sau nhà Tần trở đi, nước Tàu dù trải qua những thời kỳ chia năm xẻ bảy manh mún, (Tam quốc, Lục triều, Ngũ đại hay ngũ quý) các lãnh tụ chiến thắng lên ngôi đều xưng đế. Tất cả họ hiểu rõ mình không thuộc nền văn minh vương đạo nhu hòa của chủng người Lạc Việt.

Hùng vương (Pháp sư trưởng) không phải là vua, ông ấy không cai trị cho nên không có triều đình với bá quan văn võ rành mạch như của Tàu. Cho rằng “Các vua Hùng duy trì uy thế với một cuộc sống triều đình sung túc [1] ,” là không có cơ sở. Các “vua” Hùng có thể có những gia đình riêng sung túc, nhưng một triều đình với vua quan cai trị như triều đình của Tàu thì không hề có. Sử chép ngoài các con, trai gọi là Quan Lang, gái gọi là Mỵ Nương, và những người giúp việc cho ông ấy được gọi là Bố Chính, Hùng vương không có quan viên nào khác. Vì vậy, các lạc hầu, lạc tướng chỉ là do người Tàu bịa đặt theo quan niệm truyền thống với triều đình của họ mà thôi.

Việt Nam Sử Lược của học giả Trần Trọng Kim theo các cổ thư Tàu, viết: “Quyền chính trị [của các “vua” Hùng] thì cha truyền con nối, gọi là phụ đạo” [2] cũng là nói theo lời của các sử gia Tàu bịa đặt, chớ thời bấy giờ dân tộc Việt còn ở chế độ mẫu hệ, chưa chuyển qua phụ hệ, làm gì có chuyện “cha truyền con nối gọi là phụ đạo”! Những cuộc nổi dậy do phụ nữ lãnh đạo như ta đã thấy. Mỵ Nương đi chơi, gặp cậu thanh niên nghèo rớt mồng tơi trên bờ sông Chử (Chử Đồng tử), nàng lấy làm thích, bèn tự ý và chủ động “bắt” làm chồng mà chẳng thèm hỏi ý cha mẹ hay triều đình nào cả; chẳng phải đó là một bằng chứng rõ ràng của chế độ mẫu hệ và tình trạng Hùng Vương không có triều đình đó sao? Không những đến đầu Công nguyên, cuộc khởi nghĩa của hai bà Trưng vẫn mang đậm màu sắc và tinh thần mẫu hệ (“Các nguồn tư liệu Trung quốc nói rõ Thi Sách phục tùng sự lãnh đạo của vợ”) [3] , mà đến cuộc khởi nghĩa của bà Triệu trong thế kỷ II Công nguyên, tàn tích mẫu hệ vẫn còn. Nếu không phải do tàn dư của tinh thần mẫu hệ thì liệu hàng vạn người lính nam giới kia có chịu vâng lệnh một cô gái 23 tuổi không? Phải, lúc đó “bà” Triệu là một thiếu nữ chưa chồng, 23 tuổi. Khi bà Triệu đem binh giúp anh là Triệu Quốc Đạt, thì sử sách không nhắc đến tên Triệu Quốc Đạt nữa. Người anh đó đã phục tùng sự chỉ huy của em gái mình.

Chúng ta biết dân tộc mình thuộc nền văn minh nông nghiệp nhưng thường quên rằng với nền văn minh có tính cách nhu hòa đó, tổ tiên người Việt thời tiền sử sống trong chế độ mẫu hệ. Sau hàng ngàn năm bị Tàu đô hộ, bị chúng “cưỡng bách cải đạo” một cách khắc nghiệt từ mẫu hệ sang phụ hệ, như chúng ta thấy tên thái thú Nhâm Diên thực hiện ở Cửu Chân, từ đó chúng ta quen nhìn lịch sử nước nhà qua lăng kính phụ hệ của người Tàu. Chúng ta luôn nói chuyện 18 ÔNG Hùng Vương, để đi đến kết luận về tính “cha truyền con nối gọi là phụ đạo”.

Trong chế độ mẫu hệ, tại sao nhất thiết phải là 18 ÔNG Hùng Vương? Khi hiểu Hùng Vương là một Đại Pháp sư, hay một Pháp sư Trưởng của cả nước, tại sao không là các BÀ Hùng Vương nhỉ?

Vì văn hóa Nho giáo của Tàu trọng nam khinh nữ, người phụ nữ trong xã hội Tàu không được phép có mặt ở những nơi thờ phượng tôn nghiêm hay tham dự các hoạt động xã hội hoặc các nghi lễ có tính tâm linh. Văn hóa Việt Nam hoàn toàn trái lại. Tiến sĩ K.W. Taylor nhận thấy tính song phương (bilateral) trong xã hội cổ Việt. Nghĩa là trong xã hội Việt Nam người phụ nữ có vị thế cao ngang bằng với nam giới. Cho đến thế kỷ đầu Công nguyên, “tinh thần mẫu hệ của thời này còn được xác nhận mạnh mẽ hơn nữa với sự kiện là mộ và đền thờ của thân mẫu bà Trưng Trắc vẫn còn đó mà tuyệt không thấy có di tích gì cả của phụ thân bà” [4] cho thấy vai trò người đàn ông trong xã hội còn ở đâu đâu và… chưa là cái đinh gì hết! “Hình luật của các triều đại Việt Nam trong các thế kỷ muộn về sau phản ảnh một vị thế tương đối cao của người phụ nữ, biểu thị sự đề kháng ảnh hưởng chế độ phụ quyền từ Trung quốc. Xã hội Việt Nam thời thượng cổ có thể là không phải chịu sự kiểm soát của phụ nữ, nhưng rõ ràng là phụ nữ có các quyền thừa kế cho phép họ đảm nhiệm các vai trò lãnh đạo chính trị” [5] .

Thế thì rất có thể đã tồn tại các BÀ Hùng Vương!

Sự xuất hiện của An Dương Vương sau đời Hùng Vương thứ 18 là một điều bí ẩn mà cho đến nay dường như chưa có một giả thuyết nào giải thích thỏa đáng. Người ta không biết ông ấy từ đâu đến. Các thuyết cho rằng ông ta từ xứ Thục bên Tứ Xuyên qua hay từ Cao Bằng xuống đều không ổn. Nếu ông ta từ một nơi nào đó ở ngoài Việt Nam đến đánh hạ “vua” Hùng, chiếm nước Văn Lang, ắt là ông ta phải để lại dấu vết nào đó để các nhà nghiên cứu nhận thấy. Nhưng “Không có bằng chứng cho thấy sự nổi dậy của An Dương Vương để lại dấu vết gì trong ngôn ngữ Việt Nam, và rõ ràng là không có sự thay đổi lớn nào về nhân số” [6] . Tức An Dương Vương không phải từ bên ngoài vào. Ông ta cứ như trên trời rớt xuống. Lặng lẽ và êm thấm; không gây ra một sự xáo trộn hay thêm bớt nào, cả trong dân số và ngôn ngữ. Có thể nào An Dương Vương chính là vị Hùng Vương thứ 19 không? Ông ta không hề lật đổ vị Hùng Vương 18. Hùng Vương 18 qua đời bao giờ không ai nhớ. Và một “Pháp sư” mới xuất hiện tại chỗ. Lần này là nam giới. Ông đổi quốc hiệu, xây dựng thành Cổ Loa, thành lập quân đội. Có thể do các hoạt động đó nặng tính cai trị thế tục, không hợp với truyền thống thiêng liêng của bậc vương, hoặc giả các Hùng Vương trước đó toàn phụ nữ, bây giờ An Dương Vương là nam giới cho nên chưa được xã hội tôn phong danh hiệu Hùng Vương cao quý ấy chăng?

Nếu không phải vậy, mà cố chứng minh cho được rằng An Dương Vương là người ngoài ở đâu đó chưa rõ, mang ba vạn quân vào đánh chiếm nước Văn Lang, rồi sáp nhập Văn Lang vào nước Tây Âu để lập ra nước Âu Lạc, thì An Dương Vương có khác gì đối thủ của ông là Triệu Đà? Thế sao về sau các sử gia đố kỵ bài xích Triệu Đả mà kể An Dương Vương vào quốc thống Việt Nam?

Dù sao, sau một ngàn năm nô lệ, Ngô Quyền - và dân tộc Việt Nam - vẫn nhớ truyền thống của dân tộc mình là Vương đạo. Ngô Quyền xưng vương là nối lại quốc thống. Tiến sĩ Keith Weller Taylor có thể chưa hiểu rõ nội dung nhưng đã nhận ra , và gọi đúng nó là truyền thống vương quyền của đất nước (a local tradition of kingship), tuy sau đó các sử gia của ta có lý do để sắp xếp lại, không đặt Ngô Quyền ở phần Bản Kỷ của sử ký nữa mà thay bằng Đinh Bộ Lĩnh (xưng đế).

Do truyền thống Vương đạo trong đó xã hội chưa có vua, chỉ được đặt dưới sự lãnh đạo tinh thần của một nhà hiền triết, nên khi Ngô Quyền xưng vương để nối lại quốc thống, ông phải đối diện một thực tế khác. Sau một ngàn năm bị đô hộ, hoàn cảnh đất nước và xã hội đã thay đổi. Bản thân ông xuất thân là võ tướng, ông chưa hề là một pháp sư hay nhà minh triết bao giờ. Chính võ công hiển hách trời long đất lở đã đưa ông lên vị trí một ông vua cai trị. Rất có thể từ Vua đã xuất hiện trong tiếng Việt vào thời kỳ này, cùng lúc với sự phát sinh vị thế lãnh đạo chính trị của Ngô Quyền, khi ông không phải là bậc Vương truyền thống. Ông là Vua. Vua thì phải có một triều đình với bá quan văn võ. Cho đến đó, cả dân tộc Việt Nam chưa hề có kinh nghiệm về vua chúa như vậy. Thế nên tiến sĩ K. W. Taylor thấy “Triều đình do Ngô Quyền thiết lập là bắt chước theo các kiểu cách truyền thống của Tàu, ngay cả quy định về màu sắc phẩm phục cho các quan [7] .

Tuy Ngô Quyền có công quét sạch giặc ngoại xâm, giành lại độc lập và nối lại quốc thống cho đất nước, nhưng các sử gia của ta sau Ngô Sĩ Liên đã có lý do để không đặt ông ở phần Bản kỷ trong sách sử ký nữa, mà thay ông bằng Đinh Bộ Lĩnh, dù ông này xưng đế chớ không xưng vương, mở ra một truyền thống mới của Việt Nam.

Vương là một hiền giả, một nhà minh triết, thậm chí có thể là một thánh nhân, nối thông tam tài, hiểu thấu các nguyên lý của trời đất và con người. Một bậc như thế phải có địa vị cao hơn các vua chúa trần gian. Thế nhưng, người Trung quốc, vốn biết rõ Vương là khái niệm mang giá trị tinh thần của riêng người Việt, chớ không phải của họ, nên họ không dành sự tôn trọng đặc biệt cho nó. Trong truyền thống của Trung quốc, con trai trưởng của hoàng đế được phong đông cung thái tử để sau này nối ngôi đế của cha. Vương trở thành một tước vị, chỉ được dùng để phong cho các con trai thứ của vua. Thế là từ Vương bị tước mất ý nghĩa tinh thần thiêng liêng và trở thành một tước hiệu thế tục. Những ông con trai thứ của hoàng đế thì minh triết cáí nỗi gì, và làm sao là người có thể nối thông tam tài Thiên Địa Nhân được!

Mặt khác, Đinh Bộ Lĩnh với hùng tâm chia đôi thiên hạ với người Trung quốc, ngang nhiên đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, ngang nhiên xưng Hoàng đế đầu tiên của truyền thống Việt, ngang ngửa với Hoàng đế của Tàu, trong tinh thần “mỗi bên làm đế hùng cứ một phương”, để sau này Lý Thường Kiệt ung dung cất giọng “Nam quốc sơn hà Nam đế cư!”.

Đó là lý do khiến các sử gia triều đình sau Ngô Sĩ Liên không muốn tiếp tục truyền thống vương đạo để chịu thua kém Tàu, vua mình ngang hàng con cái của vua Tàu, nên đã dời mốc Bản Kỷ của sử ký vào sự nổi dậy của Đinh Bộ Lĩnh: Đinh Tiên hoàng đế của Việt Nam độc lập.

Cuốn sách The Birth of Vietnam của giáo sư K.W. Taylor có chứa một điều gây tranh cãi lớn mà hơn ba mươi năm qua (từ khi sách ra đời) dường như chưa có nhà phê bình nào muốn đá động đến. Đó là việc ông ghép triều đại Triệu Đà với nước Nam Việt vào lịch sử Việt Nam và cho rằng “Các sử gia Việt Nam về sau ghi nhận Triệu Đà là một vị vua đã chống lại quân Trung quốc xâm lược để bảo toàn lãnh thổ. Ông được tôn thờ tại nhiều nơi ở miền Bắc Việt Nam [8] . Và “Việc ông [Triệu Đà] nắm giữ cái móng của thần Kim Quy biểu thị sự hợp thức của ông trong tâm trí của người Việt Nam, và giải thích uy thế của ông cao hơn An Dương Vương [9] .

Người ta nghĩ Lê Văn Hưu là sử gia đầu tiên đưa Triệu Đà vào lịch sử truyền thống Việt Nam trong cuốn Đại Việt Sử Ký của ông mà về sau Ngô Sĩ Liên căn cứ vào đó để làm bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư và đặt Triệu Đà ở phần Ngoại Kỷ. Thực ra, nó bắt nguồn từ một cuốn sử khác trước đó nữa.

Khi quân Minh đô hộ nước ta vào cuối nhà Trần, chúng cướp hết sách vở của nước ta mang về bên Tàu, trong đó có một cuốn sử tên là Đại Việt Sử Lược. Về sau, một học giả Tàu phát hiện cuốn Đại Việt Sử Lược trong thư khố của triều đình của họ, bèn đem khắc in, nhưng chúng bỏ đi chữ Đại. Cuốn sách còn tên Việt Sử Lược. Trong Việt Sử Lược đã có Triệu Đà mở đầu trang sử nước ta ở đó rồi. Và người ta nhận ra cuốn Việt Sử Lược hay Đại Việt Sử Lược là bản tóm lược của cuốn Việt Chí (không còn) củaTrần Phổ, một sử quan dưới triều Trần Thánh Tông. Lê Văn Hưu được cho là đã hiệu đính cuốn Việt Chí nên đã đưa Triệu Đà từ đó vào bộ sách Đại Việt Sử Ký của mình.

Trong bài Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi cũng kể Triệu Đà vào truyền thống lịch sử Việt Nam:

自 趙 丁 李 陳 之肇 造 我 國 ,

與 漢 唐 宋元 而 各 帝 一 方

Tự Triệu Đinh Lý Trần chi triệu tạo ngã quốc,

Dữ Hán Đường Tống Nguyên nhi các đế nhất phương.

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần, gây nền độc-lập;

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, hùng-cứ một phương .

(Trần Trọng Kim dịch)

Dường như Ngô Thời Sỹ là người đầu tiên lên tiếng không công nhận Triệu Đà: Trong sách Việt Sử Tiêu Án, ông đặt Triệu Đà vào Kỷ Ngoại thuộc:

“Xét sử cũ: An Dương Vương mất nước, để quốc thống về họ Triệu, chép to 4 chữ: “Triệu Kỷ Vũ Đế”. Người đời theo sau đó không biết là việc không phải. Than ôi! Đất Việt Nam Hải, Quế Lâm không phải là Đất Việt Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam. Triệu Đà khởi ở Long Xuyên, lập quốc ở Phiên Ngung, muốn cắt đứt bờ cõi, gồm cả nước ta vào làm thuộc quận, đặt ra giám chủ để cơ mi lấy dân, chứ chưa từng đến ở nước ta. Nếu coi là đã làm vua nước Việt, mà đến ở cai trị nước ta, thì sau đó có Lâm Sĩ Hoằng khởi ở đất Bàn Dương, Hưu Nghiễm khởi ở Quảng Châu, đều xưng là Nam Việt Vương, cũng cho theo Quốc kỷ được ư? Triệu Đà kiêm tính Giao Châu, cũng như Ngụy kiêm tính nước Thục, nếu sử nước Thục có thể đưa Ngụy tiếp theo Lưu Thiện, thì quốc sử ta cũng có thể đưa Triệu tiếp theo An Dương. Không thế, thì xin theo lệ ngoại thuộc để phân biệt với nội thuộc vậy” [10] .

Học giả Đào Duy Anh, trong Lịch Sử Cổ Đại Việt Nam cùng ý kiến phản bác đó, viết rõ chữ lớn như một lời tuyên bố to tiếng: NHÀ TRIỆU KHÔNG PHẢI LÀ QUỐC TRIỀU” và có lời lẽ nặng nề hơn: “Các sử thần đời Lê kế tục phương pháp và quan điểm của Lê Văn Hưu ở đời Trần (quan điểm lịch sử phản dân tộc) không thấy rằng Triệu Đà làm vua nước Nam Việt ở miền Quảng Đông, Quảng Tây đối với nước Âu Lạc mà nghỉ xâm lược, chỉ là một tên giặc cướp nước chớ không phải một đế vương chính thống” [11] .

Quan điểm của học giả Đào Duy Anh cũng được nhiều nhà sử học khác của Việt Nam chia sẻ. Sách Lịch Sử Việt Nam (tập I) của các tác giả Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, và Lương Ninh, sau khi kể ra một số chi tiết về “chính sách mị dân” của Triệu Đà, “dùng nhiều thủ đoạn và khôn khéo để tranh thủ các thủ lĩnh người Việt,” đã kết lại: “Và cũng chính cái thực tế Nam Việt phức tạp đó đã làm cho nhiều nhà viết sử của ta thời phong kiến ngộ nhận, coi nhà Triệu như một triều đại chính thống của nước ta và viết thành một Kỷ nhà Triệu trong chính sử” [12] .

Không những thế, sách Lịch Sử Việt Nam (Tập 1) của Ủy Ban Khoa Học Xã Hội Việt Nam, tức phản ảnh quan điểm chính thức của nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, cũng coi Triệu Đà là kẻ xâm lược, gọi ông ta bằng “y”. “Triệu Đà kéo quân sang xâm chiếm Âu Lạc lúc đầu bị thất bại, sau y phải dùng mưu mô quỷ quyệt kết hợp với hành động quân sự mới chiếm được” [13] .

Ghi Chú :
         [1] The Hùng kings maintained their prestige with a prosperous court life… The Birth of Vietnam, page 13.

[2] Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, nxb Tân Việt, Saigon, in lần thứ 6, 1968, trang 24.

[3] The Chinese sources make it clear that Thi Sách followed his wife’s leadership . The Birth of Vietnam, page 39.

[4] The matriachal flavor of the time is further attested by the fact that Trưng Trắc’s mother’s tomb and spirit temple have survived , although nothing remains of her father. The Birth of Vietnam, page 39.

[5] The law codes of Vietnamese dynasties in later centuries reflect a relatively high status for women, indicating resistance to patriarchal influence from China. Ancient Vietnamese society may not have been controlled by women, but it is clear the women enjoy hereditary rights that allowed them to assume roles of political leadership. The Birth of Vietnam, page 77.

[6] There is no evidence that the rise of King An Dương left any mark on the Vietnamese language, and it is clear that there was no major demographic change. The Birth of Vietnam, page 17.

[7] The court that Ngô Quyền established was based on traditional Chinese etiquette, even to the regulation of the color of garments to be worn by officials. The Birth of Vietnam, page 270.

[8] Chao To was remembered by later Vietnamese historians as a king who defended their lands against Chinese aggression. His spirit cult was eventually honored in many parts of North Vietnam.The Birth of Vietnam, page 26 – 27.

[9] His possession of the magic turtle claw signified his legitimacy in the minds of the Vietnamese and ascendancy over King An Dương. The Birth of Vietnam, page 27.

[10] Ngô Thời Sỹ, Việt Sử Tiêu Án, Hội Việt Nam Liên lạc nghiên cứu Á Châu dịch, Nxb Văn Sử, 1991, trang 10, bản pdf.

[11] Đào Duy Anh, Lịch Sử Cổ Đại Việt Nam, Nxb Văn Hóa Thông Tin, HN, 2005, trang 48.

[12] Phan Huy Lê et al. Lịch Sử Việt Nam, (Tập 1) Nxb Đại học và Trung học Chuyên Nghiệp, HN, 1985, trang 154.

[13] UBKHXHVN, Lịch Sử Việt Nam, Tập 1. Nxb Khoa Học Xã Hội, HN, 1971, ghi chú 1 ở trang 77.

 

... CÒN TIẾP ...



VVM.28.12.2024-NVAST