Việt Văn Mới
Việt Văn Mới
        


NHỮNG ÁC TRÍ THỨC CỦA TÔN GIÁO

  


T rên thế giới hiện nay có rất nhiều Tôn Giáo, nhưng Tôn giáo có nhiều tín đồ nhất là Đạo Thiên Chúa. Theo Wikipedia thì Thiên Chúa Giáo có số tín đồ đông nhất thế giới, có đến 2 tỷ 400 Triệu, đạt 31% dân số toàn thế giới. Đạo Phật thì đứng sau cả Hồi Giáo, Ấn Độ giáo với con số tín đồ khoảng 500 triệu, đạt 6,6% dân số toàn thế giới.

Đạo Thiên Chúa đã được truyền bá vào Việt Nam vào thế kỷ 16. Gia đình tôi là người Thiên Chúa Giáo gốc từ nhiều đời. Theo cha tôi kể lại thì từ đời ông cố tôi, do tránh bị bắt đạo mà cả gia đình từ Miền Trung cuốn gói xuống ghe chèo vô Miền Nam để lánh nạn và tìm đất sống.

Từ nhỏ tôi đã được Rửa tội, Xưng tội, rước lễ và chịu Phép Thêm Sức, nên vẫn cứ đi xem Lễ, đọc Kinh như một thói quen mà không hề thắc mắc về những gì được nghe giảng dạy. Nhưng từ lúc biết suy nghĩ thì tôi thấy có một số điều mà do bản tính cá nhân tôi thấy là không thể chấp nhận được. Bản tính tôi không thích cầu xin, mà tôi thấy tín hữu Đạo Thiên Chúa hàng ngày đi Nhà Thờ, nói là để “ngợi khen Chúa”, nhưng cuối cùng cũng chỉ là Cầu Xin. Ngay cả Kinh Lạy Cha, thì cũng đã “Xin cha cho chúng con hàng ngày dùng đủ”. Kinh Kính Mừng cũng thế. Sau khi khen ngợi Đức Mẹ thì ‘Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng tôi là kẻ có tội khi này và trong giờ lâm tử A Men” . Tôi thấy hầu như những buổi lễ cũng chỉ là để Cầu Xin. Cũng giống như bên Phật Giáo lúc nào đi Chùa là cũng vì Cầu An, Cầu đủ thứ cho bản thân, cho gia đình, không phải vì nhớ, nghĩ, đến Phật !

Tôi cho rằng nếu tôi sống xứng đáng,thì Chúa như người cha nhân từ, sẽ nhìn thấy rồi tự cho, không đợi phải xin. Ngược lại, những đứa con hay xin, hay vòi vĩnh cha mẹ là những đứa siêng ăn, nhác làm ! Tôi thấy, nếu ta sống không ra gì, không tuân lời Chúa, làm nghịch ý Chúa thì có xin cũng vô ích mà thôi. Tôi quan niệm rất mạnh mẽ, nếu đã xin, thì không phải làm. Nếu xin mà vẫn phải làm thì thà cứ làm, đừng xin mất công. Thêm một điều nữa là “Một sợi tóc trên đầu con rụng xuống là cũng do ý Chúa”, thì việc ma quỷ có thể cám dỗ được để con phải phạm tội, hay lớn lao để phải rớt Địa Ngục làm sao có thể do ý con ? Chúa đã quan tâm đến từng sợi tóc, là chuyện nhỏ nhít của con kia mà ? Như vậy Chúa làm sao để quỷ cám dỗ con để ra cớ sự như thế được ? Hơn nữa, tín đồ Đạo thiên Chùa phó thác cả mạng sống của mình : ‘Sống chết thế nào mặc thửa ý Chúa phân định”, thì việc con có làm tội tày trời để bị sa Địa Ngục chẳng phải do ý Chúa sao ?

Thêm một số điều mà tôi thấy không hợp lý, thì dụ như Tội Tổ Tông. Ông Adam và bà Eve được Chúa cho sống trong vườn Địa Đàng, mọi thứ đều sẵn có, nhưng lại nghe lời con rắn để phạm lỗi với Chúa thì tội đó tự ông bà chịu, sao con cháu mấy ngàn đời sau lại bị chia tội của ông bà từ xa tít mù cả mấy ngàn đời ? Rồi nói rằng Chúa chết vì chuộc tội cho tôi trong khi cả mấy ngàn năm trước tôi đã có mặt ở thế gian đâu để mà phạm tội ? Như vậy Chúa đâu thể chuộc tội giùm tôi được ? Cho rằng Chúa thử thách bằng cách bắt một số người phải nghèo, cho một số khác giàu, rồi nói “Người giàu lên thiên Đàng còn khó hơn là lạc đà chui qua lỗ kim”. Vậy không lẽ giàu là bản án định sẵn cho họ để họ không được lên Thiên Đàng. Như vậy sao Chúa cho họ giàu làm chi ? Bắt nhiều người phải nghèo để rồi đôi khi “bần cùng sanh đạo tặc”, họ không thể kiếm ăn một cách lương thiện nên sinh ra vi phạm đức công bình, tất nhiên đâu thể lên Thiên Đàng. Vậy thì cái thử thách đó liệu có cần thiết không ? Vậy Chúa công bình ở chỗ nào ? Do đó, tôi thấy không hợp lý bằng Nhân Quả của Đạo Phật : Tội ai làm nấy chịu. Không ai có ai cằm nắm để có thể xin bớt hay nài thêm.

Theo tôi, Tội Tổ Tông có thể giải thích hợp lý hơn bằng Luật Nhân Quả của Đạo Phật. Theo Đạo Phật, Bổn Thể Tâm của con người là bất Sinh, bất diệt. Do đó, người tạo Nghiệp thì sẽ theo Luật Nhân Quả mà tái sinh để Trả Nghiệp. Nghiệp mà mỗi người phải Trả hiện tại là do Cái Vọng Tâm của chính bản thân, trong tiền kiếp đã Tạo, nên hiện kiếp phải Thọ Cái Thân mới để Trả. Do cái Thân trước, cũng chính là Bổn Tâm của ta đã điều khiển cho cái Thân giả tạm lúc đó đã làm, nên có thể tạm hiểu đó là Tổ Tông của ta đời trước đã Tạo Nghiệp, và cái thân kiếp này, được xem như là đời con, cháu phải Trả. Còn cho rằng đó là tội do Ông Adam và Bà Eve, không dính dáng tới ta thì cớ gì mà ta phải gánh phụ Nghiệp của hai ông bà ?

Tôi nghĩ rằng có thể thời gian Chúa giảng Đạo quá ngắn, chỉ có 3 năm, nên các Thánh Tông Đồ làm sao ghi nhớ hết để truyền lại, cho nên có thể nhiều nhà truyền giáo thời sau hoặc diễn tả theo ý các vị, hoặc thêm thắt nhiều thứ cho phù hợp Vì thế, tôi chỉ tôn trọng MƯỜI ĐIỀU RĂN, vì tôi thấy có mục đích là để giáo hóa để con người đi trong đường Thiện, làm Lành, lánh Dữ.

Lẽ ra chỉ cần giữ đúng MƯỜI ĐIỀU RĂN CỦA CHÚA là con người đã đủ để sống một đời sống đạo đức rồi. Thử hỏi một con người mà thảo kính cha mẹ, yêu thương mọi người như bản thân, lại không tham của người, không tham dục, không nói lời thiếu trung thực, không phạm đức công bình, không làm tổn hại đến người khác thì đã quá tốt đẹp rồi. Không chỉ bản thân người Hành những điều đó được lợi lạc, mà cả gia đình, những người chung quanh và cả xã hội cũng được ảnh hưởng tốt. Bởi chắc chắn trong gia đình có người sống đúng mẫu mực như thế thì những thành viên trong nhà cũng sẽ bớt đôi co, sân si với nhau hơn. Láng giềng sống cạnh những người như thế cũng không sợ bị lấn ranh, bị mất mát. Xã hội cũng bớt những nhiễu nhương. Ra đường không sợ bị giựt dọc. Mua bán không sợ bị cân thiếu, tráo hàng. Một đất nước mà quan chức không ỷ thế cậy quyền để áp bức, hà hiếp người dân, lại chăm lo cho dân thì quá tốt đẹp. Đất nước mà trong đó mọi người dân đều yên tâm làm ăn, sinh sống với phong cảnh thiên nhiên tuyệt vời, hoa trái bốn mùa không thiếu thì không phải Vườn Địa Đàng là gì ?

So sánh GIỚI của ĐẠO PHẬT và ĐIỀU RĂN của Thiên Chúa Giáo, tôi thấy cả hai bên đều đưa ra những nguyên tắc sống cho tín đồ hoàn toàn đúng đắn và rất cần thiết để hướng con người về đường THIỆN. Tuy nhiên, tín đồ có tuân giữ luật lệ hay không ? Tôn Giáo có phát triển hay không ? Đúng hướng hay không, đa phần là do những Nhà Truyền Giáo, vì hai Giáo Chủ thì đã nhập diệt từ rất lâu rồi, không còn để chỉnh sửa nếu những đệ tử của mình không làm đúng theo ý mình mong mỏi.

Đạo Phật đã được khai mở cách đây đã gần 3.000 năm. Đạo Thiên Chúa thì cũng đã hơn 2.000 năm. Trong thời gian dài như thế, có biết bao nhiêu Nhà Truyền Giáo đã vì lòng sùng Đạo, vì muốn mở mang Tôn Giáo của mình mà chia nhau đi khắp nơi để giảng đạo, thu hút tín đồ về với Đạo của mình. Đạo nào cũng cho rằng mình mới là Chân chính. Với GIỚI và ĐIỀU RĂN như thế thì tôi cho rằng, dù theo bất cứ bên nào cũng sẽ có cuộc sống hạnh phúc, an vui. Lúc qua kiếp khác cũng sẽ được về nơi tốt đẹp như nhau.

Chắc chắn trong số những vị Truyền Giáo, ngoài những người nhiệt tâm vì Đạo, vô vụ lợi, vì thấy cái hay, cái tốt đẹp, mà muốn phổ biến cũng không tránh khỏi những kẻ muốn có uy tín riêng, muốn nhàn thân lại được nhiều người trọng vọng hay muốn “mượn đạo tạo đời” .

Hồi nhỏ, đi Nhà Thờ thường xuyên, nhưng tôi không thấy nhắc nhiều đến ĐIỀU RĂN, mà chỉ coi trọng việc Xưng Tội, Rước Lễ, đi Nhà Thờ đều đặn. Vì thế, bên Thiên Chúa Giáo kết tội những người không còn đi Nhà thờ để đọc Kinh, xem Lễ, xưng tội, rước lễ là “Bỏ Đạo”, là “mất linh hồn”. Bản thân tôi khi không còn đi Nhà Thờ cũng như xưng tội, rước lễ, nên bị những người trong gia đình hay bà con đều cho tôi là “lạc đạo” và lúc nào cũng muốn khuyên tôi “trở lại Đạo”. Nhưng tôi đã có sự chọn lựa của mình, nên có lần tôi cũng tự nhận mình là “Kẻ lạc đường diễm phúc”, vì khi bắt đầu tìm hiểu Đạo Phật rồi phân tích những gì cần làm, tôi nhận ra con đường mới mà tôi chọn không hề đưa tôi đến những việc làm trái với đạo làm người, cũng không ra ngoài những ĐIỀU RĂN của Chúa. Nhưng, nếu giải thích theo Đạo Phật : tất cả tội, phước, được hưởng hay chịu đọa đều do NHÂN QUẢ của bản thân người gây tạo là hợp lý hơn là do quyết định của Thiên Chúa hay Thượng Đế. Và đã giao cho giữ một sổ ĐIỀU RĂN mà người giữ đầy đủ, không vi phạm, thì tại sao lại phải CẦU XIN mà không đương nhiên người nào hoàn thành nhiệm vụ được giao là sẽ được ban thưởng ? Hơn nữa, đã nói rằng “Chúa ở khắp mọi nơi”, “Chúa ở cùng anh chị em”, thì khi tôi không phá Giới, không vi phạm các Điều Răn , chẳng lẽ, Chúa, Phật không ở trong tôi, sao nhất định phải vô Nhà Thờ mới gặp Chúa ? Vì vậy, tôi cho rằng việc phải đi Nhà Thờ là dành cho những người đức tin yếu kém, họ cần sự nhắc nhở, nên đến Nhà Thờ để nghe các Linh Mục giảng dạy để đừng phạm tội làm mất lòng Chúa mà thôi.

Phía Đạo Phật thì từ khi tách ra làm Hai THỪA. ĐẠI THỪA và TIỂU THỪA, thì mạnh bên nào nấy chia nhau đi khắp nơi giảng Đạo Phật. Tất nhiên tùy theo Nhà Truyền Giáo hiểu thế nào thì khai triển thế đó, vì nghĩ đó là tốt đẹp nhất cho Tôn Giáo của mình. Rốt cuộc là những quốc gia nào mà Tiểu Thừa đặt chân đến thì không thấy nói đến người nào đã tu hành Giác Ngộ, thành Phật, chỉ thấy Chùa Chiền nở rộ, ngày càng nhiều càng quy mô, bề thế hơn. Tượng ngày càng lớn hơn. Có bao nhiêu ngọc ngà châu báu trong đất nước thì tập trung để trang hoàng cho Tượng, cho Chùa Chiền.

Campuchia thì có Angko Wat, Chùa Vàng, Chùa Bạc. Thái Lan có Chùa Phật vàng hay còn gọi là Chùa Trái Mít có tượng Phật bằng vàng khối cao 3m nặng 5,5 tấn. Chùa Wat Pra Dhammakaya thì thờ 1 triệu tượng Phật vàng, 300.000 tượng Phật đồng, 700.000 tượng khác trong khuôn viên rộng 4 cây số vuông. Miến Điện thì có Chùa mái được đúc bằng cả mấy chục tấn vàng. Hàng trăm quần thể Chùa chung quanh cũng dát vàng. Tượng Phật cũng bằng vàng cẩn ngọc, kim cương và ngôi Chùa Đá có cục đá dát vàng nằm cheo leo trên núi mà không bị rớt, trở thành điểm du lịch, thu hút khách tham quan !

Trung Quốc có hàng chục Tượng Phật to lớn nổi tiếng như :

- Tượng Phật ở Núi Nghiêu, Hà Nam có tên là Trung Nguyên Đại Phật, cao 208m. Thân cao 108m, bệ đỡ cao 80m.

- Linh Sơn Đại Phật phía Nam núi Mã Sơn Tỉnh Giang Tô có Tượng Phật cao 88m, Thân 79m, đài Sen 9m.

- Hồ Nam có Tượng phật Bà Quan Âm nghìn tay, nghìn mắt bằng đồng mạ vàng, cao 99m.

- Tam Á Quan Âm cao 108m. Bảo tọa Hoa Sen cáo 10m với 4 tầng.

- Lạc Sơn Đại Phật là tượng đá lớn nhất thế giới cao 77m nằm trong Núi Lãng Vân.

- Nổi bật nhất là hai Tượng Phật cao 55m và 37m ở Afganistan, được tạc thẳng vào núi sa thạch, chiếm cả quả núi từ thế kỷ thứ 6. Năm 2011 đã bị phiến quân Hồi Giáo cực đoan dùng mọi cách phá hủy cho bằng được.

- Việt Nam cũng không kém cạnh. Tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông cao 12m6 bằng đồng nguyên khối, đạt kỷ lục Châu Á.

- Năm 2006 Tượng Phật Di Lặc ở Núi Cấm cao 33m6. Bệ tượng là 27x27m được tổ chức Kỷ Lục Việt Nam xác nhận kỷ lục Tượng Phật

Di Lặc lớn nhất trên đỉnh núi ở Châu Á. Vừa mới đây, tượng Phật Di Lặc trên đỉnh núi Bà Đen cao 36m đã đẩy tượng ở Núi Cấm xuống hạng !

Trong khi Đạo Phật cho là “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”, tức là những gì có tướng đều là hư vọng, vì thời gian nào đó sẽ bị hư hoại, và mục đích tu hành theo Đạo Phật là để được Thoát Khổ. Nghĩa khác là Thành Phật, và “tất cả Chúng sinh là Phật sẽ thành”, tức là mọi người đều phải Thành Phật như Đức Thích Ca đã thành, thì những người hiểu sai Đạo Phật lại hướng dẫn cho Phật Tử Tôn Thờ Phật và Chư Bồ Tát để được cứu độ ! Họ huy động sức người, sức của, dồn hết để xây Chùa cho bao la để cho tượng gỗ, tượng xi măng ngự, trong khi nhiều nơi dân chúng không có nhà để ở, cơm không đủ để ăn. Bệnh viện thì quá tải, không đủ để chứa các bệnh nhân. Cầu, đường không thuận tiện cho việc đi lại để người dân có thể mang sản phẩm là công sức, mồ hôi đã đổ ra của mình đi tiêu thụ, nên cuộc sống vốn đã khó khăn lại càng khó khăn hơn. Họ chỉ chăm chăm vào Chùa, vào Tượng mà không hề nghĩ đến những tầng lớp khó khăn trong xã hội, chứng tỏ họ hoàn toàn không làm theo lời Phật là mong muốn “cứu độ cho bá tánh”, mang lại hạnh phúc, an vui cho tất cả mọi người trong kiếp sống ngắn ngủi không đầy trăm năm ở cõi thế gian !

Đạo Thiên Chúa kết tội những con chiên vi phạm. Người phạm tội nặng thì bị “dứt phép thông công”, kể như không bao giờ được lên nước Thiên Đàng. Nhưng xem lại lịch sử của các Đức Giáo Hoàng, được gọi là ĐỨC THÁNH CHA - tức là trong Đạo Thiên Chúa sánh các Vị Giáo Hoàng tương đương với những vị Thánh - và cho rằng những gì Đức Giáo Hoàng dạy đều do ý của Đức Chúa Thánh Thần ban xuống, không hề sai lầm, thì thấy trên google có bài viết về những vị Giáo Hoàng đã liệt kê ra cho thấy : trong 266 vị Giáo Hoàng thì có đến 11 vị phạm những tội tày trời !

1/- Giáo Hoàng Stephen VI đã đào xác của vị Giáo Hoàng tiền nhiệm là Giáo Hoàng Formosus đưa ra xét xử xong quăng xuống sông Tiber. Cuối cùng Giáo Hoàng này bị nhóm ủng hộ Giáo Hoàng Formosus bỏ tù rồi bóp cổ đến chết !

2/- Giáo Hoàng John XII bị buộc tội giết người, khai man, báng bổ, thậm chí là loạn luân là hai chị em của Ngài. Lên ngôi năm 955 khi mới 18 tuổi. Ngày sau đó ông biến nơi ở của mình thành nhà thổ, dánh bạc bằng tiền cúng dường cho nhà Thờ, thậm chí ông còn bị buộc tội thiến một Vị Hồng Y ! Giáo Hoàng John XII bị chết vì bị người chồng phát hiện ông đang ở trên giường với vợ anh ta, nên đã đánh đập và ném Giáo Hoàng ra của sổ. Giáo Hoàng qua đời 3 ngày sau đó !

3/- Giáo Hoàng Benedic IX được đưa lên làm Giáo Hoàng năm 1032 khi mới 12 tuổi. Ông bị các đối thủ chính trị tìm cách sát hại nên đã trốn khỏi nhà thờ Thánh Peter và dành thời gian đế ăn trộm, sát hại và làm nhiều tội ác khác.

Năm 1045 Giáo Hoàng Benedict IX phế truất người thay thế để trở lại ngôi vị một lần nữa, nhưng chỉ được 2 tháng. Sau đó ông đã được đề nghị một số tiền lớn để bán lại ngôi vị Giáo Hoàng cho người kế vị. Nhưng không lâu sau đó ông lại chiếm lại ngôi vị lần thứ 3 khi Giáo Hoàng Clement II qua đời năm 1047. Tháng 8 sau, ông bị Henri III của Đế chế La Mã đánh duổi ra khỏi nhà. Từ đó không còn quay trở lại.

4/- Giáo Hoàng Boniface VIII lên ngôi sau cuộc bầu cử năm 1924. Ông đã cho dựng tượng mình khắp thành Roma và nói rằng “ngủ với con trai không có vấn đề gì hơn là cho tay này vào tay kia”. Ông đã cho phá hủy Thành Phố Palestrina vì mối thù chính trị cá nhân. Có một phái viên đã cho rằng “Các Hồng Y đều mong muốn cái chết của ông ta và mệt mỏi với những trò quỷ quái của ông ta”.

5/- Giáo Hoàng Sixtus IV Được bầu cử năm 1471 kiếm soát sự ham muốn tình dục của những người cấp dưới nhưng lại có 1 đứa con với em gái mình, dường như có đến 6 đứa con ngoài giá thú . Ông đánh thuế nhà thờ đối với gái mại dâm và buộc tội các linh mục có nhân tình. Ông được xem như gia đình trị vì đã cho cháu trai của mình làm Hồng Y !

6/- Giáo Hoàng Innocent VIII có rất nhiều con ngoài giá thú. Thành Giáo Hoàng năm 1484, là Giáo Hoàng công khai thừa nhận có 8 đứa con ngoài giá thú. Ông rất quan tâm đến thuật phù thủy, và trong tài liệu năm 1484 Ông nói rằng khuyến khích và ban phước cho hành động săn phù thủy.

7/- Giáo Hoàng Alexander VI trở thành Giáo Hoàng năm 1492, trước đó ông chỉ là Rodrigo Borgia, thành viên của tội phạm khét tiếng người Borgias. Ông đã dùng tiền mua được vị trí Giáo Hoàng và có nhiều nhân tình nhất với 9 đứa con ngoài giá thú !

8/- GIÁO HOÀNG Jalius II mắc bệnh giang mai nặng. Được bầu vào năm 1503 là vị Giáo Hoàng hống hách, nóng nảy. Ông đã từng khoác lên mình bộ giáp màu bạc dẫn quân xuống nước Ý tham gia các trận chiến nhằm mở rộng lãnh thổ cho Nhà Thờ. Vào Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh năm 1508 bàn chân ông lỡ loét đến nỗi tín đồ không thể hôn chân !

9/- Giáo Hoàng Leo X trở thành Giáo Hoàng năm 1513, ông đả trở thành người bảo trợ nghệ thuật nổi tiếng và ủy thác việc xây dựng lại Vương Cung Thánh Đường Thánh Phê Rô. Để giúp chi trả cho các kế hoạch lớn của mình, ông đã cho phép bán “Phép ân xá” và cho phép các tín hữu “mua nước Thiên Đàng”.

10/- Giáo Hoàng Paul IV được bầu vào năm 1555 được biết đến với hành vi bài Do Thái khủng khiếp. Ông đã tạo ra khu ở chuột Do Thái ở Rome. Trong đó người Do Thái bắt buộc đội những chiếc mũ đặc biệt. Một số giáo đường Do Thái cũng bị phá hủy đưới triều đại của ông. Ông bị ghét đến nỗi sau khi qua đời người ta cho hủy hết các tượng của ông ở khắp Roma.

11-/- Giáo Hoàng Urban VIII dọa thiêu Galilée năm 1633 khi ông cho rằng mặt trời mới thật sự là trung tâm của vũ trụ chớ không phải là trái đất. Galiée buộc phải rút lại phát hiện của mình hoặc bị thiêu sống. Tất nhiên Galiée phải chọn được sống ! Mãi đến 350 năm sau, nhà Thờ mới chính thức xin lỗi về sai lầm của mình.

Xem ra lối sống của các Vị Giáo Hoàng đó còn đáng “dứt phép thông công” cả ngàn lần, vì có vị có cả đống con, trong khi đời sống tu hành là phải đồng trinh, sạch sẽ. Có vi lại mở nhà thổ, cờ bạc, ấu dâm ! Có vị lấy vợ người. Có vị bị giang mai.. Có vị vừa tranh giành ngôi vị, vừa mua bán nước Thiên Đàng.. quả là tệ hại hơn những tín đồ tầm thường rất nhiều ! Nhưng điều đáng buồn cho tín hữu Thiên Chúa Giáo là Giáo Hoàng dù hành vi xấu xa cỡ nào cũng không bị buộc phải từ chức trừ khi Ngài tự nguyện. Do đó, các tín hữu chỉ có cách là cầu nguyện để cho Ngài ăn năn sám hối hay cầu nguyện để Chúa nhân từ cất Ngài ra khỏi thế giới này !

Cũng may mà thời đó chưa có Internet kết nối toàn cầu như thời nay, cho nên dù các Giáo Hoàng đó có làm tội tày trời thì cũng chỉ những vị cấp dưới và chung quanh biết mà thôi. Phương tiện truyền thông chưa có, giáo dân ở khắp nơi không hề hay biết, nên vẫn vững tin vào Hội Thánh, và lần hồi các Giáo Hoàng lên ngôi sau đó cũng đã chấn chỉnh lại, nên những điều đó không còn xảy ra nữa, nhờ vậy mà Đạo Thiên Chúa Giáo vẫn vững mạnh với số tín đồ cao nhất như hiện nay.

Thử làm một phép so sánh về Giáo Pháp của hai Tôn Giáo, thì tôi thấy Giáo Pháp của Đạo Phật hợp lý hơn, vì mỗi tín đồ tự phải chuyển hóa cái Tâm Mê Lầm của mình, phải thanh lọc Thân, Tâm để từ suy nghĩ đến hành động đều chân chính. Mọi người không buộc phải TIN những điều quá tầm hiểu biết, mà chỉ nên TIN vào những gì chính họ thực hành và đạt kết quả, và cho rằng mỗi người tự làm, tự chịu trách nhiệm hành vi của mình. Làm Tốt được tốt, làm xấu bị Quả Xấu, gọi là NHÂN QUẢ. Phật không có quyền tha thứ hay trừng phạt một ai. Tín Đồ của Đạo Phật chỉ nương tựa Giáo Pháp của Đạo Phật, không nương tựa vào Giáo Chủ như bên Thiên Chúa Giáo. Nhưng có thể người bên Thiên Chúa Giáo cho rằng Giáo Chủ của mình là Thượng Đế là Ngôi Hai, từ Trời hạ sinh xuống làm người, lại là người sáng tạo ra vũ trụ, con người và muôn loài cầm thú hẳn là phải quyền lực cao hơn là Đức Thích Ca, vì Đức Thích Ca cũng chỉ là một con người bình thường, là một Hoàng Tử con của Vua một nước nhỏ, lại phải tu hành thì mới Đắc Đạo !

Nhưng theo tôi, dù tín đồ bên Đạo Thiên Chúa được dạy rằng CHÚA Giê Su là NGÔI HAI từ trời giáng xuống thế gian để chuộc tội cho loài người. Chỉ cần có Đức TIN là sẽ được cứu rỗi. Hay như tín đồ bên Đạo Phật, chỉ Tin sau khi Quán Sát, Tư Duy để hiểu rõ về Các Pháp, thấy bị ràng buộc thì dùng những phương tiện mà Phật chỉ lại để tự tháo gỡ. Tất cả chỉ là Phương Tiện của các Đấng Bề Trên. Vì chỉ cần giữ MƯỜI ĐIỀU RĂN - nếu là tín đồ Thiên Chúa Giáo, hay NGŨ GIỚI của Đạo Phật, thì cũng đều sống lương thiện và không làm Ác, do đó, kết quả sẽ giống nhau : Được hưởng an vui, hạnh phúc khi đang sống, và khi hết kiếp sẽ được về nơi tốt đẹp hơn.

Con người tuy yếu đuối, nhưng tham lam, ích kỷ, ác độc, gian xảo, mưu lược. Nếu không giáo hóa nó thì nó sẽ làm ra nhiều điều tác hại cho bản thân và cho người khác. Với đầu óc thông minh, con người hoàn toàn có thể chế ra vũ khí sinh học hoặc hóa học có khả năng hủy diệt con người, kể cả trái đất là nơi con người sinh sống để phục vụ cho tham vọng của nó. Vì thế, rất cần có các Tôn Giáo với những lời hứa hẹn, hoặc đe dọa sẽ bị trừng phạt, để con người ngưng tạo Ác Nghiệp và bớt đeo bám lấy cuộc đời vì hy vọng sau khi chết sẽ được về một thế giới khác tốt đẹp gấp trăm gấp nghìn lần hơn. Theo tôi, đó là Phương tiện CHÂN CHÁNH, tức CHÁNH PHÁP, mà cả hai Tôn Giáo : Thiên Chúa Giáo và Phật Giáo đều làm giống nhau.

Bất cứ Tôn Giáo nào cũng cần những người chịu trách nhiệm để hướng dẫn cho tín đồ. Đạo Phật gọi đó là Thiện Tri Thức. Kinh ĐẠI BÁT NIẾT BÀN nói về Thiện Tri Thức như sau :

- “Này thiện Nam Tử ! Thế nào gọi là Thiện Tri Thức ? Hàng Thiện Tri Thức có thể chỉ dạy cho Chúng Sanh xa lìa Mười Điều Ác, tu hành Mười Điều Lành, do nghĩa này nên gọi là Thiện Tri Thức. lại hàng Thiện Tri Thức lời nói đúng như pháp, thật hành đúng như lời nói, chính là tự mình chẳng Sát Sanh cũng bảo người chẳng Sát Sanh. Tự mình có Chánh Kiến cũng đem Chánh kiến dạy cho người.

- Nếu có thể được như đây thời gọi là chơn thiệt Thiện Tri Thức. Tự mình tu tập Bồ Đề cũng có thể dạy nguời tu hành Bồ Đề. Tự mình tu hành Chánh Tín, Trì Giới, Bố Thí, Đa Văn, Trí Huệ cũng có thể dạy người như vậy. Do đây nên gọi là Thiện Tri Thức.

- Này Thiện Nam Tử ! Như mặt trăng từ đêm mùng một đến đêm rằm lần lần thêm lớn đầy đủ. Cũng vậy. Thiện Tri Thức làm cho người học đạo lần xa lìa pháp ác, thêm lớn pháp lành. Nếu có người gần gũi Thiện Tri Thức từ trước chưa có Giới Định Huệ, Giải Thoát, Giải Thoát tri kiến này bèn có đó. Người chưa đầy đủ thời thêm rộng, do vì gần gũi Thiện Tri Thức. .

Nếu có người có thể nói TÍN, GIỚI, ĐA VĂN, BỐ THÍ, TRÍ HUỆ, làm cho mọi người thọ trì, thật hành, đây gọi là Bồ Tát Thiện Tri thức vậy”.

Thiện Tri Thức của Đạo Phật có nhiệm vụ của hướng con người đến một nếp sống lương thiện, đạo đức, Cải Ác, Hành Thiện. Bên Thiên Chúa Giáo cũng không khác, để cuộc sống hiện tại của chính người hành theo sẽ được hạnh phúc an vui. Sau khi chết thì do cả đời sống không có làm ác, nên sẽ được về cảnh giới tốt đẹp. Như thế, Giới hay Điều Răn được đặt ra, tuy hạn chế tín đồ không được làm điều nọ, điều kia, nhưng cũng không quá trói buộc làm con người phải sống khốn khổ, quay đâu cũng đụng Giới, đụng Điều răn, và mục đích không phải là để làm vừa lòng, tôn vinh hay phục vụ Giáo Chủ, mà để bản thân người giữ đúng những điều đó sẽ được lợi ích.

Tu hành theo Đạo Phật là để được Giải Thoát, hết Khổ. Cái Giải Thoát này phải phổ cập cho tất cả mọi người, không phân biệt trình độ, tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp, trong Chùa hay ngoài đời. Tín đồ theo các Tôn Giáo chân chính dù do ngưỡng mộ hay do yêu kính Giáo Chủ mà sống một đời sống lương thiện, thì cuộc sống ngày càng an ổn, hạnh phúc hơn. Họ nhờ được khuyên dạy mà biết làm Lành, lánh Dữ. Biết báo đền ơn cha mẹ, biết bớt tham lam, không làm việc ác nên bản thân và môi trường chung quanh được nhẹ nhàng, tốt đẹp hơn. Do vậy, người nào vì cầu Danh, cầu Lợi mà tuy không hiểu Đạo, chưa Chứng Đắc, nhưng vẫn mở Chùa ra rồi kêu gọi nhiều người tu theo mình, rồi dùng hàng mấy trăm Giới để trói buộc họ. Bắt họ phải hy sinh cuộc sống riêng tư. Phải rời bỏ cha mẹ, nhà cửa. Không được có vợ con. Sống một đời kham khổ. Cả đời chỉ loay hoay tụng Kinh, gỏ mõ nhưng cuối cùng cũng không đến đâu. Không đạt kết quả Giải Thoát. Hoặc dùng danh nghĩa của Phật để bắt tín đồ phải cung dưỡng cho mình. Nhân danh Phật rồi gom góp vàng bạc của bá tánh để dựng những tượng đồ sộ. Xây những Ngôi Chùa lộng lẫy, nguy nga, trang hoàng bằng những vật liệu đắt giá, rồi mình ở trong đó hưởng thụ cuộc sống vương giả, thay vì dùng những tài sản đó để giúp cho những hoàn cảnh khó khăn, hay để làm những công trình ích dân, lợi nước, đúng theo lời Phật dặn dò là phải đền Tứ Ân, gồm Ân Cha Mẹ, Ân Phật, Ân Thầy, Ân Chúng Sinh, Ân xã hội, Ân Đất nước, là những người đã bảo dưỡng, giáo hóa, che chở, cung cấp phương tiện cho mình trong suốt kiếp sống.

Giáo Hội Thiên Chúa Giáo cũng đã áp dụng luật lệ một cách máy móc. Rất nhiều đôi lứa yêu nhau mà không thể nên vợ chồng vì luật lệ bắt buộc bên kia phải theo Đạo mới được chịu Phép Hôn Phối ! Nếu Tôn Giáo của mình là tốt đẹp, thì “hữu xạ tự nhiên hương”, người ngoại đạo sẽ vì cảm phục cách sống đạo đức, thánh thiện nên tự nguyện xin theo. Đàng này cưỡng ép họ, trong khi có thể họ là những người theo Đạo Ông bà và là người hương khói cho tổ tiên. Bắt họ từ bỏ để theo đạo của vợ hay chồng thì làm sao họ phục ? Nếu họ vì bị ép buộc mà phải chịu vô Đạo để cưới được người họ yêu thì liệu họ sẽ giữ Đạo được bao lâu ? Cưỡng ép thêm một người vào Đạo liệu có làm cho “Nước cha trị đến” hay không ? Hay chỉ làm cho tín đồ của mình bất mãn, thấy rằng Đạo đã o ép mình, rồi đôi khi vì quá yêu nhau họ phải lén lút đến với nhau lại vi phạm Điều Răn của Chúa ! Như vậy có phải do sự ép buộc của ai đó nhân danh tôn giáo đẩy họ vào tội lỗi, phải lén lút đến với nhau, hoặc cưới nhau mà không được Tôn Giáo cho phép để cả đời còn lại sống trong ray rứt vì vi phạm Luật của Hội Thánh, nên không được Xưng Tội, Rước Lễ ? Họ yêu nhau, muốn đến với nhau một cách hợp pháp, được xã hội công nhận, không vi phạm Điều Răn của Chúa, không vi phạm đạo đức làm người sao lại bị cấm cản ? Như vậy có phải là do ý Chúa hay chỉ là ý của cá nhân nào đó muốn lôi kéo thêm nhiều người vào Đạo rồi đổ cho Chúa ? Chẳng phải Chúa xuống thế, chịu hành hình, chết trong đau khổ là vì để gánh tội cho con người, để con người được hưởng hạnh phúc hay sao ? Hoặc như 11 vị Giáo Hoàng trích dẫn, đã không nêu được tấm gương đạo đức cho giáo dân, và tuy bản thân sống sa đọa mà lại đi kết tội những tín đồ, làm cho nhiều người mất niềm tin nơi tôn giáo của mình. Theo tôi, đó chính là những Ác Trí Thức của Tôn Giáo, vì không chỉ vi phạm Điều Răn của Chúa, mà trong cương vị lãnh đạo Tôn Giáo, họ mang tội lừa Chúa, dối người, làm mất thiện cảm của người khác Đạo đối với Tôn Giáo của mình vậy.

Tháng 11 Năm 2024



VVM.29.11.2024.