CUNG OÁN NGÂM KHÚC:
TÍNH NHÂN VĂN SÂU SẮC
TRONG VẺ ĐẸP NGHỆ THUẬT QUÍ PHÁI
T rong các di sản văn học Nôm cổ điển Việt Nam, Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều là tác phẩm được xếp ở hàng đầu, bên cạnh Thơ quốc âm của Nguyễn Trãi, Chinh phụ ngâm, Truyện Kiều, và Thơ Nôm Hồ Xuân Hương …
Cung oán ngâm khúc là tác phẩm thơ trữ tình trường thiên, mang vẻ đẹp của một cung điện vàng son lộng lẫy thời cổ, được kiến tạo bởi bàn tay khối óc của một bậc văn hào tiền bối kiệt xuất. Thế nhưng mấy thập kỉ qua hình như không mấy ai tới thăm viếng và tìm hiểu sâu hơn về chân giá trị của di sản văn hoá đặc sắc đó.
Thiết tưởng để mặc một cung điện quí báu nhường ấy cho thời gian phủ bụi, vừa là một lỗi lớn với tiền nhân, vừa là một thiệt thòi lớn cho chính lâu đài văn học và con người Việt Nam hôm nay.
Cung oán ngâm khúc tuy là tác phẩm văn chương bác học, cung đình, nhưng chủ đề của tác phẩm đã xoáy trúng vào một vấn đề nghiêm trọng, nhức nhối, đã và thậm chí vẫn đang tồn tại trong xã hội loài người. Đó là số phận bi kịch của người phụ nữ có nhân phẩm cao quí bị vùi dập thảm thương bởi những thể chế, tập tục của một xã hội phi nhân đạo. Đó là số phận của những người con gái A Rập xinh đẹp thời cổ bị giết hại ngay sau đêm đầu tiên phải hiến thân cho nhà vua (Truyện Nghìn lẻ một đêm ). Đó là bi kịch của các cung nữ đời Tần, Hán, Đường… bên Trung Hoa, bị hủy hoại cuộc đời trong cung cấm. Đó là bi kịch của những người con gái tuyệt sắc như Chiêu Quân, Ban Tiệp dư…
Nguyễn Gia Thiều vốn dòng dõi trâm anh thế phiệt (mẹ ông là công chúa Ngọc Tuân Quỳnh Liên, con gái chúa Trịnh Cương). Từ nhỏ sống trong phủ chúa, ắt hẳn ông đã chứng kiến không ít những “nỗi hờn thềm ngọc” của những người con gái tài sắc bị chúa bỏ rơi. Nhờ lương năng và bẩm chất nhân hậu, ông đã nhận rõ và cảm thông với nỗi đau khổ vô bờ bến của các cung nữ. Thiên chức của nhà thơ đã thôi thúc ông mang hết tâm can viết nên một thi phẩm trác tuyệt, chan chứa xót thương.
Từ cổ chí kim, quyền lực luôn là con dao hai lưỡi. Quyền lực được hướng dẫn bởi lương tri sẽ thúc đẩy xã hội tiến bộ, văn minh, làm cho con người hạnh phúc. Ngược lại, quyền lực phi lương tri - dù ở khía cạnh nào - cũng là một vết nhơ trên đạo đức của chính những kẻ có quyền lực, đồng thời gây tác hại nghiêm trọng cho xã hội và gieo thảm hoạ cho bao người thiện lương, vô tội.
Trong tất cả những điều ác hại mà những kẻ có quyền lực gây ra trên thế gian này thì việc cưỡng bức phụ nữ – những kiệt phẩm của vũ trụ (Lessing) – để làm trò chơi, sau đó huỷ hoại họ không thương tiếc, là điều ác hại tồi tệ nhất, tội lỗi nhất.
Để trình bày một đề tài có tầm nhân văn hết sức sâu sắc và hiện thực, Nguyễn Gia Thiều đã khắc hoạ cái kiểu mẫu điển hình tình yêu và hôn nhân của vua chúa phong kiến, trong đó hiện diện hai nhân vật – vua và cung nữ – thuộc hai tuyến đối lập: đối lập về địa vị xã hội và đối lập về chất người .
Chỉ bằng vài nét phác hoạ, ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Gia Thiều đã lột tả được cái bản chất chủ yếu của nhân vật vua : đó là tính hiếu sắc. Mới nghe đồn trong nước vừa xuất hiện một nàng con gái đẹp, ông ta đã:
Tai nghe nhưng mắt chưa nhìn,
Bệnh Tề Tuyên đã nổi lên đùng đùng!
Hiếu sắc là một cái “tật” thuộc nhân bản, nó có thể được tha thứ phần nào nếu người đàn ông đồng thời có tình yêu thực sự. Nhưng ở nhân vật vua , cái gọi là tình yêu chỉ là những màn kịch kiểu cách, giả dối của kẻ vương giả, chỉ là “màn giáo đầu” của những cuộc hành lạc xác thịt đơn thuần:
Nào lối dạo vườn hoa năm ngoái,
Đoá hồng đào hái buổi còn xanh,
Trên gác phượng dưới lầu oanh,
Gối du tiên hãy rành rành song song.
Tác giả đặc tả bản chất vua qua hành động mê đắm sắc dục của ông ta bằng nhiều câu thơ táo bạo:
- Cái đêm hôm ấy đêm gì,
Bóng dương lồng bóng đồ mi trập trùng.
- Đệm hồng thúy thơm tho mùi xạ,
Bóng bội hoàn lấp loá trăng thanh.
Mây mưa mấy giọt chung tình…
- Đoá lê ngon mắt cửu trùng,
Tuy mày điểm nhạt nhưng lòng cũng xiêu…
- Thừa ân một giấc canh tà,
Tờ mờ nét ngọc, lập loà vẻ son.
Thế nhưng sự say đắm sắc dục ấy không che lấp được bản chất của một kẻ “chí ngu giả bất cập tình”. Chính sự kém phát triển nhân tính cộng với sự dư thừa quyền lực đã khiến ông ta trở thành một kẻ chai đá, vô cảm trước những tình cảm nồng cháy của cung nữ sau khi đã hưởng thụ no xôi chán chè sắc đẹp của nàng:
Ai ngờ bỗng một năm một nhạt,
Nguồn cơn kia ai tát mà vơi?
Và ông ta hiện nguyên hình là một kẻ bạc tình:
- Muôn hồng nghìn tía đua tươi,
Chúa xuân nhìn hái một hai bông gần.
- Khảnh làm chi bấy, chúa xuân?
Chơi hoa cho rữa nhuỵ dần lại thôi.
- Bây giờ đã ra lòng rẻ rúng,
Để thân này cỏ úng tơ mành!
- Bây giờ đã ra lòng ruồng rẫy,
Để thân này nước chảy hoa trôi!
Chân giá trị của phụ nữ, những lạc thú tinh thần tuyệt diệu do tình yêu mang lại, lòng thương yêu, tình phu phụ, sự thủy chung… những điều đó hoàn toàn xa lạ với nhân vật vua này! Việc chà đạp lên những giá trị đó chứng tỏ ông ta đã thoát li khỏi truyền thống đạo đức, tình cảm vô cùng đẹp đẽ của người Việt từng chất đọng trong những câu ca dao đầy xót xa, thương cảm:
Sông Ngân há dễ bắc cầu?
Trai thương vợ cũ, gái sầu chồng xưa…
Có phải là một qui luật tất yếu chăng: khi đã leo lên đến tột đỉnh của quyền lực, những kẻ thống trị mà ông vua này đại diện, thường… “đổ đốn” chạy theo những dục vọng ích kỉ, thấp hèn của cá nhân mà đối lập lại đạo lí, tình cảm và phong tục của toàn thể dân tộc mình?
Có thể nói tác giả Cung oán ngâm khúc đã lột mặt nạ của một ông vua tuy ở đỉnh cao quyền lực nhưng bản chất thì ở tầm rất thấp trong thang giá trị con người. Gã vua ấy đã khiến cung nữ oán giận và khiến những con người chân chính khinh bỉ và ghê tởm.
Thông qua hình ảnh một ông vua “thiếu nhân tính”, Cung oán ngâm khúc đề cập tới một vấn đề bức xúc mang tầm vóc nhân loại: nhân quyền của con người, của phụ nữ, đã bị những thế lực thống trị chà đạp dã man, tàn khốc như thế nào? Đó chính là vấn đề nổi cộm nhất của lịch sử nhân loại kể từ khi xã hội phân chia thành giai cấp, hình thái xã hội mà K. Marx gọi là thời tiền sử của nhân loại. Đó là thời đại mà những kẻ có quyền lực về chính trị và kinh tế (bất chấp bản thân họ ở tầm thấp hơn trong thang giá trị nhân văn) có thể ngang nhiên tước đoạt quyền sống, thậm chí cả tính mạng của những kẻ không có quyền lực (mặc dù những người này ở tầm cao hơn trong thang giá trị nhân văn).
Đối lập với nhân vật “hạ cấp” vua , nàng cung nữ là một sinh linh thượng đẳng.
Trước hết, nàng là một người con gái tài sắc vẹn toàn:
Hương trời đắm nguyệt say hoa,
Tây Thi mất vía, Hằng Nga giật mình.
Câu cẩm tú đàn anh họ Lí,
Nét đan thanh bậc chị chàng Vương…
Dẫu mà miệng hát tay dang,
Thiên tiên cũng ngảnh nghê thường trong trăng…
Nàng được bao người trân trọng, một tương lai đầy hứa hẹn hạnh phúc đang chờ đón nàng:
Làng cung kiếm rắp ranh bắn sẻ,
Khách công hầu gấm ghé mong sao…
Thế rồi bỗng đâu áng mây đen chụp xuống: ông vua hiếu sắc “đánh hơi” thấy tài sắc của nàng bèn xuống lệnh tuyển nàng vào cung làm cung phi, thực chất là tàn phá cuộc đời nàng! Nàng vốn không hề mong đợi điều ấy, nhưng trí não non nớt, chưa từng trải việc đời, lại bị bao vây bởi những quan niệm hủ lậu đương thời, cuối cùng cho dù rất hồ nghi nàng đã không cưỡng lại nổi số mệnh dun dủi nàng trở thành cung phi:
Đường tác hợp trời kia dun dủi,
Lọt làm sao cho khỏi nhân tình?
Thôi thôi ngoảnh mặt làm thinh
Thử xem con tạo gieo mình nơi nao?
Vì nhân bản của cung nữ rất lành mạnh nên bất chấp tất cả những sự trớ trêu của tấn trò đời, những phẩm chất thiên chân và nữ tính tuyệt đẹp của nàng về tình yêu, về đức hạnh… vẫn cứ thể hiện trọn vẹn ngay trong hoàn cảnh nàng bị lừa dối. Nàng ngộ nhận rằng tình yêu của vua với nàng là một tình yêu có thực:
- Hạt mưa đã lọt miền đài các,
Những mừng thầm cá nước duyên may…
- Mày ngài với mặt rồng lồ lộ,
Sắp song song đôi lứa nhân duyên.
Khi còn được vua “sủng ái”, tất cả nhan sắc và những thiên tư khả ái nhất, nàng đã dâng hiến hết cho đấng quân vương mà nàng tin tưởng và yêu dấu:
Thôi cười nọ lại nhăn mày liễu,
Ghẹo hoa kia lại nhíu gót sen,
Thân này uốn éo vì duyên…
Nàng có dư khả năng để chứng tỏ nàng là “kiệt tác của vũ trụ”, không hề thua kém bất kì một nữ nhân vật khả ái nào trong văn học thế giới. Nhưng có lẽ điều cao quí hơn cả là nàng nguyện suốt đời làm một người vợ thủy chung và đức hạnh:
Tranh tỉ dực nhìn ưa chim nọ,
Đồ liên chi lần trỏ hoa kia.
Chữ “đồng” lấy đó mà ghi,
Mượn điều “thất tịch”* mà thề bách niên.
----------------------
* đêm mùng 7 tháng 7, vợ chồng Ngâu được gặp nhau.
Chất người tinh tuý của nàng nếu đã thể hiện trong thời kì được vua sủng ái thì càng thể hiện sắc nét hơn bội phần trong thời kì nàng bị vua ruồng bỏ. Sự quằn quại của một nhân bản tuyệt diệu mới thật sự làm nên cái đẹp phi thường của tác phẩm.
Đầu tiên nàng không khỏi sửng sốt vì bị “chồng” phản bội, bởi vì sự phản bội trong tình yêu là điều hoàn toàn xa lạ với những con người đức hạnh như nàng:
Ai ngờ mỗi một năm một nhạt,
Nguồn cơn kia ai tát mà vơi?
Vì không sao hiểu nổi bản chất Sở Khanh của vua và sự xấu xa của xã hội vương giả, nàng chỉ cảm thấy một nỗi đau nhân bản trong trạng huống tối tăm của tâm trí nàng:
Trong cung cấm âm thầm chiếc bóng,
Đêm năm canh trông ngóng lần lần.
Khảnh làm chi bấy, chúa xuân?
Chơi hoa cho rữa nhuỵ dần lại thôi!
Là một người biết yêu say đắm, hết mình, chung thuỷ, nên khi bị phản bội, cung nữ lập tức phải uống chén mật đắng nhất đời:
- Ngọn tâm hoả đốt rầu nét liễu,
Giọt hồng băng thấm ráo làn son.
- Đêm năm canh lần nương vách quế,
Cái buồn này ai dễ giết nhau?
Giết nhau chẳng cái Lưu Cầu,
Giết nhau bằng cái u sầu độc chưa?
Tấn bi kịch của cung nữ càng thêm thống thiết và xúc động khi giữa cảnh tuyệt vọng, tâm hồn còn đang tràn trề tình cảm thanh xuân của nàng vẫn không nguôi nuối tiếc những phút giây hạnh phúc đã qua:
Nào lúc tựa lầu Tần hôm nọ,
Cành liễu mành bẻ thuở đương tơ.
Khi trướng ngọc lúc rèm ngà
Mảnh xuân y vẫn sờ sờ dấu phong!
Cũng giống như nữ sĩ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Gia Thiều đã nhìn thẳng vào sự thật, táo bạo miêu tả những thèm khát ái ân của cung nữ. Dưới ngòi bút của ông, cung nữ hiện diện là một con người thật sự, sống động và vô cùng đáng yêu với những tâm tư, cảm xúc và khát vọng mãnh liệt, khác hẳn những nhân vật mang tính ước lệ thường thấy trong văn học thời phong kiến. Điều đó chứng tỏ Nguyễn Gia Thiều là một nhà nhân bản chủ nghĩa đích thực, vượt xa nhiều “văn nhân” đương thời:
- Hoa này bướm nỡ thờ ơ
Để gầy bông thắm để xơ nhuỵ vàng!
- Tình rầu rĩ khôn khuây nhĩ mục,
Chốn phòng không như giục mây mưa.
Giấc chiêm bao những năm xưa
Hạt mưa cửu hạn còn mơ đến rày!
Và còn gì thương tâm và đau đớn hơn khi ta chứng kiến cảnh nàng suốt bao năm đằng đẵng, ngày đêm canh cánh mong đợi người chồng tệ bạc kia có thể bất chợt đoái trông lại mình! Bị giam cầm trọn kiếp trong cung cấm, đó là niềm hi vọng duy nhất mà nàng còn có thể bám víu:
- Khi trận gió lung lay cành bích,
Nghe rì rào tiếng mách ngoài xa.
Mơ hồ nghĩ tiếng xe ra,
Đốt phong hương hả mà hơ áo tàn!
- Khi bóng thỏ chênh vênh trước nóc,
Nghe vang lừng tiếng giục bên tai.
Đè chừng nghĩ tiếng tiểu đòi,
Nghiêng bình phấn mốc mà dồi má nheo!
Thiết tưởng trong cái “bể khổ trần gian” thì nỗi đau khổ của cung nữ – một tâm hồn, một trái tim, một thể xác trẻ trung tuyệt đẹp bị chôn sống trong cung cấm suốt đời – là nỗi đau khổ ở nấc chót. Chỉ những con người thực sự Người – tức những con người phát triển đến đỉnh cao, những con người thượng đẳng – mới có thể cảm nhận được những nỗi đau khổ và những niềm hạnh phúc ở nấc chót như nàng cung nữ mà Nguyễn Gia Thiều miêu tả.
Cung nữ vốn là một con người nhu thuận, nhưng khi nhân phẩm của nàng bị xúc phạm, cuộc sống của nàng bị giày xéo tàn nhẫn thì nhân cách của nàng cũng lớn lên. Từ trái tim nàng đã vang lên những tiếng nói oán hờn, căm giận:
Tay Nguyệt lão chẳng xe thì chớ,
Xe thế này có dở dang không?
Đang tay muốn dứt tơ hồng,
Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra!
Lí trí của nàng đã tự vận động và đã sáng ra. Nàng nhận thức được tấn bi kịch của đời mình, nhận thức được sự tàn tệ của nhà vua đối với nàng. Như người chợt tỉnh “giấc mộng kê vàng”, nàng nhận ra sai lầm tai hại của mình đã ăn phải bả vinh hoa để đến nỗi rơi vào thảm cảnh:
- Tay tạo hoá cớ sao mà độc,
Buộc người vào kim ốc mà chơi.
Chống tay ngồi ngẫm sự đời,
Muốn kêu một tiếng cho dài kẻo căm!
- Vốn đã biết cái thân câu chõ,
Cá no mồi cũng khó nhử lên…
Và cuối cùng đầu óc sáng láng của nàng đã lần tìm được lối dẫn tới chân lí của hạnh phúc: không phải quyền lực và địa vị xã hội mà chính bản chất tốt đẹp của con người đã quyết định hạnh phúc ấy!
- Miếng cao lương phong lưu nhưng lợm,
Mùi hoắc lê thanh đạm mà ngon.
Cùng nhau một giấc hoành môn,
Lau nhau ríu rít cò con cũng tình.
- Thà rằng cục mịch nhà quê,
Dầu (mặc) lòng nũng nịu nguyệt kia hoa này.
Sự tỉnh ngộ ấy đã làm hoàn thiện lí trí của cung nữ, đồng thời hoàn chỉnh bức chân dung nhân phẩm của nàng, một phụ nữ Việt Nam đích thực thời xưa, một đối tượng đẹp đẽ và xứng đáng được tôn vinh của văn chương cổ điển.
Một số nhà phê bình văn chương thuộc phái “cựu học” trước đây, những người uyên bác nhưng vẫn chưa thoát khỏi bóng tối và những hàng rào chắn của giáo điều phong kiến, đã khen ngợi cung nữ là người đàn bà đức hạnh, trung hậu, biết “kiềm chế” nỗi đau khổ của bản thân, tuy có trách móc vua nhưng không đến mức phẫn nộ, không làm tổn hại đến “lòng trung quân” vốn là một thứ “cực tôn quí, cực thiêng liêng”… Nhưng theo chúng tôi, nhận định ấy đã phơi bày sự trì độn của những khối óc đã bị nhào nặn bởi những giáo điều phong kiến. Nhưng khối óc tầm thường ấy không thể so sánh được với khối óc mẫn tuệ khác thường của thi gia kiệt xuất Nguyễn Gia Thiều, người đã mang quan niệm đạo đức truyền thống cao quí của dân tộc đối lập với lối sống “vô nhân bạc nghĩa”, “ăn xổi ở thì” của bọn vua chúa phong kiến. Với tâm hồn nhân ái sâu sắc của một nhà thơ nhân đạo chủ nghĩa tầm vóc nhân loại như Lí Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị hay Nguyễn Du sau này, Nguyễn Gia Thiều đã vô cùng bất bình, phẫn nộ, đã không chút nương tay, tha thứ cho gã “vua” bất nhân và xảo trá kia. Chính ông là người nhìn thấu chân tướng của “vua”: tuy ngồi ở “trên trốc” của xã hội nhưng trên cương vị của một người đàn ông, một người chồng, thì “vua” chỉ là một gã trai lơ, một gã Sở Khanh, không hơn không kém! Mặc dù tác phẩm kết lửng ở hai câu thơ “Phòng khi động đến cửu trùng, Giữ sao cho được má hồng như xưa?” nhưng nhà thơ dường như đã ngầm báo cho người đọc biết rằng: vĩnh viễn nhà vua không màng ngó đến cung nữ một lần nào nữa, và nàng sẽ phải chết dần chết mòn trong tuyệt vọng, oán hờn. Có nghĩa, tấn bi kịch của cung nữ là tuyệt đối, và sự phản trắc, phụ tình của vua với nàng, đến màn chót đã phơi bầy trắng trợn! Chính vì muốn lên án tội ác nghiêm trọng đối với cả cuộc đời của một con người, nhất là một con người tài sắc vẹn toàn, mà trong tên của tác phẩm mới có một chữ oán làm nhức nhối và quặn thắt lòng người ở bất kì thời đại nào!
Tóm lại, Cung oán ngâm khúc là kiệt tác văn học miêu tả sâu sắc nỗi đau khổ của một phụ nữ ưu tú. Tác phẩm đã lên tiếng hết sức mạnh mẽ, gay gắt tố cáo tình trạng bất công, vô nhân đạo của xã hội đương thời đối với con người, cụ thể là đối với cung nữ. Trong bối cảnh ngặt nghèo của thân phận một cung nữ bị thất sủng, sự đau khổ, oán giận và phản kháng của nàng đã từng đạt tới tột đỉnh. Cung oán ngâm khúc – cũng như Truyện Kiều – là tác phẩm văn chương Việt Nam mang nội dung đau đớn, tái tê, uất hận nhất về thân phận con người.
Với cặp mắt thần vô cùng tinh tường, thi hào Nguyễn Gia Thiều đã nhìn thấu bản chất của tấn bi kịch cuộc đời các cung nữ. Đó chính là tình trạng “người áp bức người” trong thời đại mà sự bình đẳng về nhân quyền chưa được xác lập. Tác giả đã vô cùng mẫn tuệ nhận chân cung nữ tuy ở địa vị thấp hèn nhưng là một con người đích thực, cao quí, còn vua tuy ở địa vị tối cao nhưng chỉ là một kẻ thô thiển, “bất cập tình”, đạo đức giả, vô nhân bạc nghĩa. Tác giả đã vạch trần sự đối lập giữa cái đẹp và cái xấu, giữa thiện và ác, và đã lên tiếng mạnh mẽ tố cáo tội ác. Đó chính là tư tưởng nhân văn rất cao và rất sâu hàm chứa trong Cung oán ngâm khúc.

Trong Cung oán ngâm khúc , Nguyễn Gia Thiều dành hẳn một chương quan trọng để triết lí về cuộc đời. Tất cả những triết lí của ông đều nhằm biểu đạt một nhân sinh quan yếm thế và bi quan – một hiện thực khổ ải, dằn vặt nhất mà chính ông phải mang nó cho đến lúc chết.
Nhưng tại sao một con người rất mực tài hoa về văn chương và am tường về cái đẹp của cuộc sống như Nguyễn Gia Thiều lại mang nhân sinh quan tiêu cực như vậy? Chúng ta chỉ có thể giải thích hiện tượng đó bằng sự phân tích những hạn chế về nhãn quan chính trị của Nguyễn Gia Thiều, và phân tích thực trạng xã hội Việt Nam thời Lê mạt – Trịnh – Nguyễn phân tranh (nửa cuối thế kỉ XVIII). Đó là thời đại đất nước bị chia cắt và chìm đắm trong cảnh nội chiến. Số phận con người vô cùng bi đát vì nghèo đói, chia li, vì chiến tranh, loạn lạc, vì sự áp bức của bè lũ vua chúa xa xỉ, hoang dâm, vô đạo. Cái ung nhọt của lịch sử đã vỡ ra khi phong trào Tây Sơn xuất hiện.
Trước bối cảnh lịch sử mới mẻ đó, giới nho sĩ đương thời phân hoá thành nhiều phái với những tầm nhìn khác nhau. Chỉ những đầu óc tiên tiến nhất về chính trị như Ngô Thì Nhậm, Trần Văn Kỉ, Phan Huy Ích, Nguyễn Huy Lượng, Nguyễn Thiếp… mới hiểu được thời đại Tây Sơn là một thời đại ít nhiều mang tính cách mạng: chí ít nó cũng là một triều đại phong kiến mới, thay thế cho những triều đại đã thối nát đang chia xẻ đất nước. Trong khi đó rất nhiều sĩ phu phong kiến – trong đó có Nguyễn Gia Thiều – không nhìn thấy điều đó. Họ coi phong trào Tây Sơn chẳng qua chỉ là một cuộc nổi loạn không hơn. Lạ nhất là, trước đây chính họ từng công nhận nhiều vị vua xuất thân từ tầng lớp bình dân như Đinh Bộ Lĩnh, Lí Công Uẩn, Trần Thái Tông, Lê Lợi… là những vị vua chân chính, vậy mà với một ông vua “áo vải cờ đào” anh hùng kiệt hiệt như Quang Trung thì họ lại phủ nhận! Thậm chí họ không thấy hết ý nghĩa và công lao vĩ đại của Quang Trung quét sạch giặc Thanh! (Khi Quang Trung đem quân ra Bắc Hà đánh giặc Thanh thì Nguyễn Gia Thiều bỏ đi ở ẩn). Đủ biết cái tư tưởng chính thống có thâm căn cố đế như thế nào trong đầu óc của con người kể cả giới trí thức đương thời!
Với nhãn quan chính trị hạn chế như vậy, Nguyễn Gia Thiều chỉ thấy trước mắt ông một màn đen tối, thê lương: ông tuyệt vọng đối với các triều đại cũ và cũng chẳng chút hi vọng với một triều đại mới! Tinh thần nhân đạo chủ nghĩa của ông trở nên tiêu cực và hoàn toàn bế tắc. Điều đó tạo nên tính bi kịch của cuộc đời ông. Trong tình trạng đó, thật dễ hiểu vì sao ông tìm lại những triết lí của Phật, Lão, Trang để làm chỗ bám víu về tinh thần, để thoát tục, để sống cho hết kiếp. Có thể nói, trong khi cung nữ than van cho số kiếp đàn bà bất hạnh của nàng thì Nguyễn Gia Thiều cũng than van thống thiết cho số kiếp của ông – một sĩ phu không tìm thấy hướng đi. Và ông coi đó là số kiếp chung của tất cả chúng sinh:
- Kìa thế cục như in giấc mộng,
Máy huyền vi mở đóng khôn lường.
- Cuộc thành bại hầu cằn mái tóc,
Lớp cùng thông như đúc buồng gan.
Bệnh trần đòi đoạn tâm can,
Lửa cơ đốt ruột, dao hàn cắt da.
- Nghĩ thân phù thế mà đau,
Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê…
- Trăm năm còn có gì đâu,
Chẳng qua một nấm cổ khâu xanh rì!
- Thoát trần một gót thiên nhiên,
Cái thân ngoại vật là tiên trong đời…
Những suy tư dằn vặt của Nguyễn Gia Thiều nhắc nhở chúng ta phải phát huy tất cả trí tuệ của mình để đi tìm đáp số chuẩn xác nhất cho cái “kiếp phù sinh” của chúng ta. Chúng tôi hi vọng rằng chúng ta sẽ giải quyết được vấn nạn đó chứ không thể chịu chìm đắm trong u minh tuyệt vọng như đấng thi hào tiền bối.

Về nghệ thuật, ngay từ khi ra đời vào cuối thế kỉ XVIII, Cung oán ngâm khúc đã được liệt vào hạng những tác phẩm văn chương kinh điển, được giới văn nhân, trí thức và nhiều người trong quần chúng nhân dân trân trọng, kính phục.
Nguyễn Gia Thiều được coi là một bậc thầy thơ nôm của các thi nhân thời Lê mạt – Trịnh – Nguyễn (kể cả thời Nguyễn thế kỉ XIX bắt đầu từ Gia Long). Tài năng văn chương của ông được danh sĩ Lí Văn Phức (1785 – 1849) nhận định: “Một là ứng khẩu thành thơ, người người đều phục, hai là trăm nhào nghìn luyện, lời lời người kinh”.
Bước sau kiệt tác thơ nôm Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc đã góp phần đưa thơ nôm thành văn lên đỉnh cao ở thế kỉ XVIII.
Giống như Chinh Phụ ngâm , từ ngữ trong Cung oán ngâm khúc không nôm na như trong các Truyện nôm khuyết danh mà quí phái, tinh xác, óng chuốt khác thường: gió vàng hiu hắt, lạnh ngắt như đồng, cằn mái tóc, gót danh lợi, mặt phong trần, mùi tục luỵ, mồi phú quí, bả vinh hoa, cánh buồm bể hoạn, ngồi trơ, đứng rũ, hoa chúm chím chào, cợt đào ghẹo mai, thánh thót cung đàn, nỉ non ngón địch, gay gắt điệu, tê tái lòng, má đào chon chót, âm thầm chiếc bóng, hồn bướm vẩn vơ, dế ran ri rỉ, quyên kêu ra rả…
Rõ ràng Nguyễn Gia Thiều đã có ý thức khai thác triệt để cái hay cái đẹp của tiếng Việt, trau dồi thêm và phô diễn chúng ở cấp độ cao.
Văn phong thơ Cung oán ngâm khúc có chỗ khác văn phong Chinh phụ ngâm : thơ Chinh phụ ngâm nói chung đằm thắm, thiết tha, da diết; thơ Cung oán ngâm khúc góc cạnh, dữ dằn, đầy dẫy ngoa ngữ, mỗi câu thơ như dao sắc khắc vào thớ đá tạo nên những ấn tượng rất mạnh. Thơ Cung oán ngâm khúc thuộc chủng loại thơ kinh nhân (làm kinh hãi người ta) mà xưa kia Đỗ Phủ khao khát đạt tới:
- Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng.
- Mùi tục luỵ lưỡi tê tân khổ,
Đường thế đồ gót rỗ khi khu.
- Hình mộc thạch vàng kim ố cổ,
Sắc cầm ngư ủ vũ ê phong.
- Cầu Thệ thuỷ ngồi trơ cổ độ,
Quán Thu phong đứng rũ tà huy.
- Lửa hoàng hôn như cháy tấm son.
- Nghiêng bình phấn mốc mà dồi má nheo.
- Ngọn tâm hỏa đốt rầu nét liễu,
Giọt hồng băng thấm ráo làn son.
- Lầu Tần chiều nhạt vẻ thu,
Gối loan tuyết đóng, chăn cù giá đông.
Ngày sáu khắc tin mong nhạn vắng,
Đêm năm canh tiếng lắng chuông rền.
Lạnh lùng thay giấc cô miên,
Mùi hương tịch mịch, bóng đèn thâm u.
v.v…
Chúng tôi cho rằng có một tiêu chí chuẩn xác để phân biệt một nhà thơ cự phách với một nhà thơ tầm thường. Đó chính là khả năng viết được những câu thơ làm chấn động tâm hồn hoặc trí tuệ người đọc. Riêng về tiêu chí này, Nguyễn Gia Thiều xứng đáng đứng vào hàng ngũ những nhà thơ kiệt xuất của dân tộc ta.
Nguyễn Gia Thiều còn có công lớn phát huy thể thơ độc đáo và quí giá của dân tộc: song thất lục bát. Đó là thể thơ có nhạc điệu hết sức réo rắt bởi sự hoà thanh của hai vần trắc ở hai câu 7 (nghe gay gắt), kế đó là là sự hoà hoãn tạo nên bởi hai vần bằng ở hai câu 6 – 8. Mạch đập của thể thơ này uyển chuyển, phong phú hơn hẳn thể thơ lục bát. Ngoài ra, tính biền ngẫu của hai câu 7 (hài thanh, đối từ, đối ý) trong suốt tác phẩm đã tạo nên giá trị thẩm mĩ đặc trưng của văn chương cổ điển:
- Gót danh lợi bùn pha sắc xám,
Mặt phong trần nắng rám mùi dâu.
- Đền Vũ Tạ nhện chăng cửa mốc,
Thú ca lâu dế khóc canh dài.
Việc mạnh dạn sử dụng thể thơ dân tộc để sáng tác một tác phẩm văn chương bác học đã chứng minh sự thông thái đáng kính phục của Nguyễn Gia Thiều.

Thi nhân Nguyễn Gia Thiều chỉ để lại cho kho tàng văn chương Việt Nam một kiệt tác Cung oán ngâm khúc và vài ba bài thơ nôm khác. Nhưng tên tuổi ông được coi là một điểm son rực rỡ trong lịch sử văn học nước nhà, bởi ông đã đóng góp một tác phẩm chứa đựng nội dung nhân đạo chủ nghĩa cực kì sâu sắc, đồng thời đạt tới trình độ nghệ thuật tót vời với ngôn ngữ điêu luyện và thể thơ dân tộc.
Nguyễn Gia Thiều viết Cung oán ngâm khúc cũng với tâm thức y hệt Đặng Trần Côn viết Chinh phụ ngâm , Nguyễn Du viết Truyện Kiều, Kalidasa (nhà thơ cổ đại Ấn Độ) viết Sơkuntơla , Rousseau viết Nàng Héloïse mới , A. Dumas fils viết Trà Hoa nữ…
Cung oán ngâm khúc đã liệt Nguyễn Gia Thiều vào hàng ngũ những nhà văn nhà thơ nhân đạo chủ nghĩa lớn của nhân loại viết về đề tài phụ nữ.