HOÀNG CẦM - HỒN THƠ ÁNH SÁNG
Lời Tác Giả :
Hà Nội ngày 6- 5- 2010. Cái nóng như đổ lửa uống Hồ
Gươm. Nhà thơ Hoàng Cầm đã ra đi cùng Lá
Diêu bông vi vút trời xa, da diết gọi Tình yêu con
người Việt Nam suốt thế kỷ XX lửa cháy.
Nỗi tiếc thương xao xác hồn tôi.
Hà Nội đêm không ngủ.
Biết rằng sẽ có một ngày xa biền biệt, không còn được
nghe tiếng nhà thơ Hoàng Cầm gọi:
“Diêu Bông hời!
Ới! Diêu Bông!..”
Vậy nên những năm 1990- 2000, tôi đã dành những buổi chiều
đến thăm nhà thơ Hoàng Cầm tại nhà riêng phố Lý Quốc
Sư- cạnh Nhà Thờ Lớn- Hà Nội, nghe ông đọc thơ, kể
chuyện tình Kinh Bắc, và khám phá thơ ông.
Chuyên luận Hoàng Cầm- Hồn thơ
Ánh sáng của tôi đã in trong tập bút ký Hương
đất Hà Thành (Mai Thục- NXB Văn hoá Thông tin- Hà Nội-
2004).
Vĩnh biệt nhà thơ Hoàng Cầm. Tôi khóc ông bằng những
dòng chữ dâng đầy nước mắt của những người mẹ,
người chị, người em gái… Kinh Bắc- Việt Nam, mà Hoàng
Cầm nâng niu, yêu thương tha thiết trong thơ ông.
Tôi niệm “Nam mô A Di Đà” cầu nguyện linh hồn nhà thơ
Hoàng Cầm bay lên cùng Hoàng Cầm- Hồn thơ
Ánh sáng.
Mai Thục
Hồ Gươm- Hà Nội đêm không ngủ.
I. VĨNH BIỆT NHÀ THƠ HOÀNG CẦM
H
oàng Cầm làm thơ từ những năm còn rất trẻ. Trong toàn
bộ tác phẩm của ông từ những kịch thơ: Hận Nam Quan,
Mắt Thiên Thu, Trương Chi, Kiều Loan, đến những tập
thơ Bên kia sông Đuống, Cót thóc và
Con đường, Men đá vàng, Về Kinh Bắc
và gần đây nhất là Mưa Thuận Thành, ta luôn bắt
gặp hình ảnh nhiều màu, nhiều vẻ của nguời phụ nữ
miền trung du Kinh Bắc, duyên dáng và ý nhị, đằm thắm
và sâu sắc, không sâu sắc kiểu “cơi đựng trầu” như
ca dao đã nói vơ đũa cả nắm về “tính chất đàn bà”
của phụ nữ. Bởi thế thơ Hoàng Cầm rung động trái tim
phụ nữ Việt Nam nhiều thế hệ. Ông là nhà thơ của Tình
yêu và Phụ nữ
Hoàng Cầm tên thật là Bùi Tằng Việt- sinh năm 1922 tại
Thuận Thành- Hà Bắc (thời Lê- Trịnh gọi là trấn Kinh
Bắc). Nơi có kinh thành Luy Lâu thời cổ đại, có chùa
Phật Tích đánh dấu cội nguồn Phật giáo, từ thế kỷ
XX sau Công Nguyên trở thành quốc đạo. Trấn Kinh Bắc xưa
là nơi phát tích của một triều đại đẹp nhất trong
lịch sử dựng nước và giữ nước- Triều đại nhà Lý.
Đó là nơi in đậm hình ảnh những người đàn bà diễm
tình và tráng lệ nhất trong lịch sử: Dương Vân Nga, Vương
phi Lý Chiêu Hoàng, Ỷ Lan, Đặng Thị Huệ, Ngọc Hân Công
chúa…
Đó
là nơi toả sáng nền văn hoá đồng lúa Kinh Bắc với dân
ca quan họ ngọt ngào mềm mại như ánh ban mai vờn
sóng lúa vàng tươi:
“Khi cất lời ca những lứa hợp tình chuốt rơm bện
ổ”
Với :
“Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong”
Với men gốm Bát Tràng ánh màu “Không Năm tháng”:
“Men Lý ra thơm ngát trăng quê
suốt ngõ
Màu thiên lý rung rinh”
Người
cha của Hoàng Cầm là một nhà Nho tham gia phong trào Đông Kinh
nghĩa thục. Mẹ ông, một cô gái Bắc Ninh xinh đẹp:
“Hát hay nổi tiếng khắp vùng”
Mẹ sinh ra Hoàng Cầm rất muộn màng. Ba mươi hai tuổi,
bà ôm con trai đỏ hỏn vào lòng ru bằng những câu quan
họ bồi hồi chờ mong:
“Gió giục cái đêm đông trường
Nửa chăn, nửa chiếu, nửa giường
để đó chờ ai…”
Tiếng hát ru hay tâm linh người mẹ khắc khoải đợi chồng
đã thấm vào thi sĩ khi mới lọt lòng.
Và cả một vùng quê hương văn hiến trữ tình từ mấy
nghìn năm ấy đã ướp nên hồn thơ Hoàng Cầm chứa chan
tình mẹ, tình yêu đôi lứa, tình thương con người. Hồn
thơ Hoàng Cầm sáng rực rỡ hồn Đất và Người Kinh Bắc,
mà nhà thơ tha thiết gọi ta về:
“Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lỳ
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh”
Thơ Hoàng Cầm toả sáng những nét tinh tế, ý nhị, mặn
mà, tươi xanh vời vợi từ trong đôi mắt cô gái Kinh Bắc
mà nhà thơ gọi là “Người gái quê mắt giếng”, hoặc
“Em gái mê cung” nên cứ lặng lẽ thấm vào lòng người
một niềm nhớ tiếc đau đáu, khôn nguôi, tuôn tràn giọt
lệ.
Nhớ tiếc những vẻ đẹp tuyệt vời xa xưa của quê hương,
nguồn cội, mà nhà thơ không lúc nào buông lơi ngòi bút
đầy yêu thương và khát vọng âm thầm.
Hồn thơ Hoàng Cầm là Ánh sáng của những nét tuấn tú,
tinh anh của các “liền anh, liền chị” quan họ, của những
bức tranh Đông Hồ: Đàn lợn Âm- Dương, Hứng dừa, Đánh
ghen, Đám cưới chuột… của những men rạn, men nâu, men
lý, đôi bình Long Phượng, màu men rất say và rất xưa triều
vua Lý.
Hồn thơ Hoàng Cầm sáng lung linh hình ảnh người mẹ nghèo
tần tảo nuôi chồng, nuôi con “Dăm miếng cau khô, mấy
lọ phẩm hồng”. Và những cô thợ cấy, những chị dân
quân, những cô hàng xén răng đen “cười như mùa thu toả
nắng”.
Hồn thơ Hoàng Cầm thơm hương vị dân tộc và thắm màu
đồng quê Việt, ngân nga nhạc điệu tâm hồn Việt từ
khởi thuỷ đến vô cùng, bay khắp không gian, toả khắp
thời gian vô lượng kiếp ánh sáng.
Hồn thơ Hoàng Cầm sáng những bức tranh khắc hoạ vùng
đất, địa lý, sông ngòi, ao hồ, núi non, cánh đồng, đường
làng, chùa miếu, đình đền, vùng đất, vùng trời Kinh
Bắc.
Địa danh Mưa Thuận Thành được nhắc đi nhắc lại,
cầm nhịp Ánh sáng chuyển vần của Tình người và Vũ
trụ trong tập Mưa Thuận Thành, để hôm nay, mưa biến thành
vô lượng Ánh sáng nâng hồn nhà thơ Hoàng Cầm bay lên
cùng Hoàng Cầm- Hồn thơ Ánh sáng:
“Thuận Thành mưa”
“Nhớ mưa Thuận Thành”
“Cứ mưa Thuận Thành”
“Thuận Thành đang mưa
Mưa Thuận Thành…”
Hồn thơ Hoàng Cầm vang không gian, thời gian vô định cái
tên “Kinh Bắc”, gieo Ánh sáng thiên thần trong tập thơ
Bên kia sông Đuống. Nhà thơ luôn nghiêng mình cầu xin
vẻ đẹp thánh thiện chân thành của quê hương nâng bước
chân mình:
“Cúi lạy mẹ con trở về Kinh Bắc”
(Đêm Thổ)
“Về Kinh Bắc phải đâu con nghẹn khóc”
(Đêm Kim)
“Về Kinh Bắc phải
đâu con nhắm mắt”
(Đêm Thuỷ)
“Về Kinh Bắc tìm chơi
đàn kiến lửa”
(Đêm Hoả”
“Về Kinh Bắc phải
đâu con hé miệng”
(Đêm Mộc)
Màu thiên lý rung rinh”
Nửa chăn, nửa chiếu, nửa giường để đó chờ ai…”
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lỳ
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh”
“Nhớ mưa Thuận Thành”
“Cứ mưa Thuận Thành”
“Thuận Thành đang mưa
Mưa Thuận Thành…”
(Đêm Thổ)
“Về Kinh Bắc phải đâu con nghẹn khóc”
(Đêm Kim)
“Về Kinh Bắc phải đâu con nhắm mắt”
(Đêm Thuỷ)
“Về Kinh Bắc tìm chơi đàn kiến lửa”
(Đêm Hoả”
“Về Kinh Bắc phải đâu con hé miệng”
(Đêm Mộc)