Việt Văn Mới
Việt Văn Mới
         


XÓM CỔNG QUÊ NGOẠI CÒN ĐÓ MÀ ĐÃ MÙ SA*



Chiều chiều ra đứng ngõ sau
             Trông về quê Ngoại ruột đau chín chiều...
(Ca dao)


T ôi có rất nhiều kỷ niệm đẹp với Quê Ngoại. Tôi sinh ra, sống những ngày tháng đầu đời ở Xóm Cổng, Quê Ngoại. Quê Ngoại tôi thanh bình lắm! Hơn 30 năm định cư ở xứ người, khác tiếng nói, khác màu da, khác sinh hoạt văn hóa, khởi đi từ lúc còn lạ nước lạ cái đến hôm nay, quá đủ lâu để nên cố quận, nhưng những kỷ niệm thuở ngày xưa còn thơ ấu ấy ở Quê Ngoại ngày càng vừa vời vợi mờ xa, vừa rõ ràng hơn bao giờ hết trong tâm hồn tôi. Những hình ảnh thân thương bên Ngoại càng ngày càng lắc, càng đầy trên con đường dài lần theo dòng thời gian của một đời người… Cái cảnh thanh bình ấy mỗi khi nhớ về, tôi lắng nghe tiếng lòng mình rung lên những xao động khôn cùng lạ thường: “Xóm Cổng… Xóm Cổng Quê Ngoại ngày xưa, cái tên mộc mạc…” (trong bài thơ Xóm Cổng Quê Ngoại ngày xưa). Tâm hồn tôi được ươm mầm lãng mạn thơ ca từ dạo ấy, cho đến một ngày, ở tuổi vào chiều, tôi trở thành… một người làm thơ. Trong 10 năm qua, dòng thơ tôi, không tham, không sân, chỉ đầy ắp một hồn thơ si mê yêu thương, và thăng hoa ở những bài thơ mang nỗi ám ảnh Freud chưa bao giờ thỏa mãn vì hợp mà tan, luôn đến rồi đi qua hình ảnh giai nhân mộng mị, nõn nà, non mọng của những cô gái đã và đang đi qua đời tôi tùy duyên!, “…Cho tôi xin hương vị em thơm ngọt / thoảng nhẹ rất gần dưới vạn ánh sao đêm…” (trích từ một bài thơ). Tôi đi tìm mãi vẫn không đặt nổi cho mình một bút hiệu, và tôi dừng lại dùng chính tên mình, Lê Minh Hiền, làm bút hiệu cho đến nay và chắc chắn mãi mãi, thầm tự nhủ như một thái độ cảm ơn chính mình, một đời phiêu dạt với những mộng ước không thành, và thầm tự nhủ như là một thái độ cảm ơn đến Ba Má, Ông Bà — những bậc sinh thành đã từng trải qua những phận đời khác nhau, nhưng tựu trung luôn luôn canh cánh trong lòng những nỗi lo toan dành cho con cháu…

Quê Ngoại tôi mang một cái tên thật mộc mạc là Xóm Cổng. Từ thành phố Qui Nhơn ngược hướng biển ra ngoại ô khoảng vài dặm, vừa qua khỏi chân Cầu Đôi, ngay bên phải là một con đê nhỏ chạy ngang qua Xóm Cổng về hướng Gò Bồi, huyện Tuy Phước. Xóm Cổng nhỏ bé, vài chục nóc nhà nằm bên phải chân con đê ngăn đôi một vùng sông nước bao la, như một cái cù lao nhỏ. Nhà Ngoại ở đầu xóm. Gió từ ngoài sông thổi vào Xóm Cổng quanh năm, bốn mùa không ngừng nghỉ. Trước khi chạy vào xóm nhỏ, lũ gió ghé vào sân nhà Ngoại chơi trò trốn tìm cả ngày lẫn đêm trên những tàu lá dừa. Những cây dừa với những buồng dừa nặng trái có màu nâu vàng hườm như màu trái dừa xiêm nhưng to như những trái dừa thường. Có lẽ nào là giống dừa thường lai xiêm! Vì vậy mà nước dừa nhà Ngoại tôi vừa nhiều nước vừa có mùi thơm mát, có vị ngọt thanh tôi chưa từng gặp lại ở bất kỳ nơi nào khác! Ký ức về lũ gió chơi trò trốn tìm lao xao trên những tàu dừa trong sân nhà Ngoại tôi ngày nào, tôi mang theo suốt đời mình! Hồi mới qua định cư ở Mỹ, vào những ngày cuối tuần, Ba tôi — người bảo lãnh cả nhà qua Mỹ — hay lấy xe hơi chở cả nhà xuống biển Huntington Beach, South California chơi. Đi trên bãi cát trắng, biển xanh, ngay giữa nắng vàng hè về, nhưng gió biển lạnh buốt sao lại bất chợt gợi trong tôi nhớ về những cơn gió nồm miên man nơi miền sông nước Quê Ngoại! Những thoáng nhớ ấy, tôi mơ hồ nghe hồn mình lạc lõng vô cùng nơi quê người, cách xa Quê Ngoại nửa vòng trái đất, bên kia đầu bờ biển Thái Bình Dương!

Nhớ rõ làm sao như hôm qua trong bộ nhớ dài hạn rất bền của tôi, những ngày xưa tôi còn bé xíu ở nhà Ngoại. Yêu làm sao những xế chiều về, Dì Út Tám tôi trải chiếu trước hè cho tôi nằm chơi, còn Dì ngồi cạnh đan lưới đánh cá. Hạ vàng ươm mật, và gió ngoài sông thổi vào mát rượi. Và cứ vậy, những cơn gió nồm yên ả ru tôi vào giấc ngủ lúc nào không hay. Đến khi tôi thức giấc thì đêm đã khuya. Ngoài sân, màu sáng trăng trong vắt thủy tinh nhuộm vàng cả không gian. Lũ gió nồm vẫn không thôi từ ngoài sông chạy về, nghe như chúng muốn thì thầm bên tai tôi một chân lý vĩnh hằng vừa sâu lắng vừa đơn giản về ý nghĩa hạnh phúc đời người của những con người an phận sống đạm bạc ở một vùng quê yên bình này. Những lúc đó, bao giờ tôi cũng thấy Ông Bà Ngoại tôi đang ngồi uống trà nói chuyện trong gian nhà giữa. Dì Tám chắc đã bỏ đi xuống nhà dưới, còn Cậu Bảy Ời chắc đi chơi đâu đó trong xóm vẫn chưa về. Ông Bà Ngoại tôi có tất cả 4 người con, từ Má tôi là chị cả thứ tư, tên là Ơi, rồi tới Dì Năm Quơi, Cậu Bảy Ời, Dì Út Tám Hử. Tôi không nghe nói gì về người con thứ hai, thứ ba và thứ sáu, có lẽ họ mất từ hồi còn rất bé chăng? Ông Ngoại tôi, như bao người dân quê chất phác muôn đời thuở xưa, hay có cái quan niệm đặt tên cho con cái sao cho nghe bình dân, thậm chí xấu xí, để đứa bé không bị cõi trên quở làm ốm yếu, để chúng nhanh ăn chóng lớn. Nên Má tôi, các Dì và Cậu tôi mới có những cái tên lạ lùng như vậy!

Với Ông Ngoại, tôi có một kỷ niệm rất ấn tượng dù chỉ nghe từ Má tôi hay kể lại. Số là, vài ngày sau khi sinh ra tôi ở bệnh viện Đa khoa Qui Nhơn, chính Ông Ngoại tôi đã chèo xỏng nhỏ rước Má và tôi từ Cầu Đôi về. Hồi ấy, con đường đê nhỏ từ đường cái quan chạy ngang nhà Ngoại còn rất hẹp, chỉ vừa đủ cho hai người đi ngược chiều nhau, và ngoằn ngoèo uốn lượn quanh co, không thể dùng phương tiện xe bốn bánh để di chuyển, kể cả xe lam rất phổ biến thuở ấy. Đã vậy, tôi ra đời vào giữa mùa mưa, loại đất thịt đắp nên con đê thường sau một cơn mưa lớn nhanh chóng biến dạng, trở nên nhão nhoẹt rất khó đi, nên Ông Ngoại tôi phải đưa Má và tôi về bằng đường sông. Và tôi không thể không kể lai lịch tấm hình minh họa bên trên tản văn này vì đâu tôi có. Tấm hình ghi nhận cả một vùng sông nước với dãy núi xa xa, khởi đầu cận cảnh là Cầu Đôi. Có cái tên Cầu Đôi, một địa danh cửa ngõ dẫn vào thành phố Qui Nhơn, là vì một bên là cây cầu đường cái quan, song song là cây cầu đường tàu lửa bên kia. Tấm hình do ai đó đã chụp, không phải của người thân tôi. Vậy mà có một trùng hợp kỳ lạ là cũng vào mùa mưa năm 1957, có ghi rõ bên dưới tấm hình, là năm tôi khởi sự có mặt trên cõi người ta này, có cả con đê nhỏ và còn lạ lùng biết bao, trên sông còn có một chiếc xỏng nhỏ do một người nào đó đang khua chèo như thể Ông Ngoại tôi đang khua mái chèo năm xưa đưa Má và tôi về nhà Ngoại vậy. Tấm hình này xuất hiện trên fb một người tôi quen biết ở Khu 6, trong thành phố Qui Nhơn, nơi tôi đã trải qua một thời tuổi thơ sau vài năm đầu đời ở nhà Ngoại, mãi cho đến sau 1975, gia đình tôi dọn về quê Nội. Tấm hình tôi tình cờ có được sau khi định cư ở Mỹ ba năm, như một ơn trên gửi tặng tôi, như một kỷ vật quý báu nhất đời tôi, tôi có nằm mơ cũng không thấy! Tôi phóng to ra và treo trang trọng ở phòng khách như mang theo bên mình một trời Quê Ngoại tôi nơi xứ người!

Hồi ấy, mỗi lần về thăm Ngoại, đi trên con đê nhỏ nghe gió lớn thổi ù ù hai bên tai đến nỗi chúng tôi phải nói to mới nghe nhau được. Đường về nhà Ngoại qua nhiều cái cống nhỏ, tôi thích lắm mỗi khi dừng chân đứng xem nước chảy ào ào qua mấy cái cống xả nước làm bằng cây này. Nước chảy qua những cái cống trông thật dữ dội. Ký ức về chúng thật ấn tượng đến nỗi mặc dầu sau này lớn lên phiêu dạt sông hồ khắp nơi, rồi sang Mỹ, đi khắp thế giới, từng có dịp đứng trước những cái thác lớn, là những kỳ quan thế giới, lòng tôi pha trộn nhiều cung bậc cảm giác khác nhau, song vẫn không tìm gặp lại cảm giác ấn tượng như khi bước qua mấy cái cống nhỏ quê Ngoại, nghe trong lòng vừa sợ vừa thích thú lạ lùng! Quê Ngoại tôi có cái tên là Xóm Cổng, phải chăng do phát âm trại ra từ chữ “cống” của những cái cống xả nước qua lại này chăng?, “…những cái cống xả nước lên xuống nghe nước chảy ào ào trông dữ dội! / tuổi thơ sợ hãi ngập ngừng khi đặt bước chân sang…” (trong bài thơ Xóm Cổng Quê Ngoại ngày xưa) .

Bây giờ, Ông Bà Ngoại đều đã qua đời, cả Cậu Bảy Ời tôi đã mất lúc vừa qua tuổi trung niên, không phải trong mùa chinh chiến điêu linh trước 1975 mà vì căn bệnh trầm cảm vài năm sau đó, bắt nguồn từ phận nước đổi thay, Cậu Bảy Ời tôi phải sống những ngày nghèo khổ và bất đắc chí. Đâu đây trong tôi vẫn còn hình ảnh Cậu Bảy Ời và ngón đờn vọng cổ nghe thật mùi, thật tha thiết, một con người có tâm hồn nghệ sĩ như con ve sầu chỉ thích ca hát suốt mùa hè! Còn Dì Út Tám lấy chồng là cán bộ Xây Dựng Nông thôn. Sau 1975, Dì theo Dượng Hạt về sinh sống ở quê chồng tận ngoài Tình Giang, thuộc huyện lỵ Tuy Phước, cách Qui Nhơn vài giờ đi xe máy. Dượng Hạt, chồng Dì, mất mười mấy năm trước trong một cơn tái phát đột quỵ bất thường lần thứ hai trên đường đưa đi vào Qui Nhơn cấp cứu. Con cái Dì đã khôn lớn, đứa nào cũng trưởng thành, có gia đình riêng, và sự nghiệp vững vàng. Tôi hay gọi video fb call về thăm Dì. Trong lần gọi vừa rồi, tôi hay tin Dì vừa qua một cơn đột quỵ như Dượng Hạt nhiều năm trước. May mà cứu chữa kịp thời, nhưng di chứng là miệng Dì hơi méo một tí. Mấy chị em tôi cùng góp tiền gửi về cho Dì. Dì nói sẽ dùng mua thuốc uống hàng tháng, cũng tốn kém khá nhiều. Và buồn nhất, chung quy vẫn là Xóm Cổng không còn như những gì tôi hay mơ màng hồi tưởng. Vô thường biến đổi, từ cảnh đến người. Đã có một con đường hai chiều đủ rộng cho xe lớn chạy ngang, thay con đường đê nhỏ, chạy mãi ra tận các huyện lỵ về hướng bắc. Nhiều phần sông đã được bồi lên thành những khu dân cư. Đến nỗi nghe tụi em tôi về Việt Nam thăm chơi, tìm về Quê Ngoại, chúng nó kể lại nếu không có tụi nhỏ con Cậu Bảy Ời dẫn đi, không khéo chúng nó lạc đường mất.

Hai đứa con gái tôi sinh ra ở một phố nhỏ cách không xa phố chính Little Saigon, thuộc Quận Cam, South California, một khu thương mại của cộng đồng người Việt nổi tiếng ở hải ngoại. Tuổi thơ của chúng không sống gần gũi thiên nhiên sông nước thanh bình như tôi ngày xưa còn thơ ấu ở Xóm Cổng Quê Ngoại, mà giữa một phố nhỏ vật chất dư thừa. Dẫu vậy, bù lại tôi biết dành cho chúng một tình yêu bao dung nhất, một vốn kiến thức quê hương nhiều nhất có thể của một người Bố bản chất vốn đầy ắp tình tự quê hương! Trước khi đến tuổi vào trường nhập học của hai bé, tôi đã bắt đầu dạy chúng học tiếng Việt. Nhờ vậy, hai đứa con tôi đọc thông viết thạo tiếng Việt, và khi nào quây quần trong nhà, cả nhà tôi chỉ nói với nhau bằng tiếng Việt như một gia đình người Việt ở trong nước. Ngoại cảnh có khác: Quê Ngoại và ở Mỹ, nhưng tình người thì muôn thuở vẫn như nhau. Ngoại cảnh chỉ là phương tiện chuyên chở tình người đến những bến bờ hạnh phúc. Nhìn con, lòng tôi bồi hồi nhớ lại mới ngày nào Bà Ngoại tôi hay nói nửa đùa nửa thật,“*Chừng nào con lấy vợ hử* con, Hiền…”, mỗi khi Bà gánh cá đi xuống Chợ Lớn Qui Nhơn bán, tiện chân ghé thăm các cháu.

Tôi giờ đã hơn nửa đời người, tuy lập gia đình có muộn màng, nhưng may mắn đang hạnh phúc với những gì mình đang có. Bé lớn Jen vừa tốt nghiệp Master of Psychology, bé ba Jane đang theo học năm thứ ba ngành văn học nghệ thuật. Còn nhớ, lúc lên ba, hai bé đã biết hát suốt ngày, nhạc Việt có, nhạc Mỹ có, song tôi thích nhất bài Em lễ chùa này, Phạm Duy phổ nhạc từ bài thơ Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp. Tôi hay nói đó là bản ruột của chúng. Chúng còn đọc được một đoạn ngắn trong bài Tôi đi học của Thanh Tịnh, “Mỗi năm cứ độ cuối thu, lá ngoài đường rơi nhiều và trên không trung có những đám mây bàng bạc, Bố Mẹ tôi dắt tay tôi đi học, đi chơi… Yeah!”. Không biết nó nghĩ sao cứ mỗi lần kết thúc đoạn văn trên, con bé không bao giờ quên giơ hai tay lên hô “Yeah” một tiếng, như để nhấn mạnh một cách hào hứng đã hoàn thành một nhiệm vụ được giao cho. Hai con tôi còn thuộc cả một bài học thuộc lòng tôi đã học từ hồi còn ở bậc tiểu học. Bài học thuộc lòng có vần điệu nhịp nhàng và đầy hình ảnh làm tôi mãi mãi không quên:

Kỳ nghỉ hè

Ta về quê

Nhà ta ở

Mé bờ đê

Ở nhà có

Bố mẹ ta

Ông và bà

Quý ta quá

Khi thư thả

Ta ra đê Đi thả bê

Nghĩ là thú.

… Nhớ lại, sau 5 năm định cư ở Mỹ, vào mùa mưa năm 1997, những mốc sự kiện của đời tôi luôn xảy ra vào mùa mưa, đúng 40 tuổi đời, sau một đêm buồn nẫu ruột trong phòng riêng của mình share với một gia đình nọ, sáng hôm sau tôi đi mua vé bay về Việt Nam quyết tâm việc lập gia đình. Trong suốt thời gian về Việt Nam, tôi trọ ở nhà từ đường do Ba tôi xây nên, sau giao cho Chú Sáu tôi trước khi cả nhà tôi sang Mỹ. Hai làng Nội Ngoại tôi sát cạnh nhau, cùng một xã, ở ngoại ô thành phố Qui Nhơn. Tôi hay ghé về nhà Ngoại, lúc này còn Mợ Bảy Ời sống cùng gia đình thằng Phúc, con trưởng nam. Tôi nhớ hoài buổi chiều hôm ấy, sau đám cưới vài ngày… một chiều mùa đông trời âm u và mưa đang rơi. Cảnh tượng thật thân thương quen thuộc một vùng sông nước Quê Ngoại nơi tôi đã từng sống qua những ngày tháng thơ ấu mà tôi thường nhớ lại da diết qua những năm tháng ở Mỹ… Mợ Bảy tôi dẫn tôi và vợ tôi ra thăm mộ Bà Ngoại. Trên đường ra mộ, mưa vẫn rơi đều đều, làm mặt sông rỗ chằng chịt. Trời lành lạnh, giữa sông có một chiếc xỏng nhỏ, một người đàn ông khoác một tấm áo che mưa kết bằng rơm vẫn bình thản buông lưới. Trời âm u hơn, mưa nặng hạt hơn, nghe lạnh hơn và gió sông mang theo nước mưa tạt vào làm chúng tôi thật khó khăn lắm mới thắp được mấy nén nhang. Vợ tôi bên cạnh, tôi cầm nhang khấn vái, thầm nhắc lại với Ngoại chuyện xưa ngày nào. Nước mắt tôi rưng rưng nhưng nhanh chóng bị những hạt nước mưa làm nhòa đi.

Ở mộ Bà về thì mưa đã tạnh, trời sáng hẳn ra. Tôi khoan khoái hít thở lại cái mùi mằn mặn, nồng nồng quen thuộc của thứ nước lợ Quê Ngoại và mùi thơm thơm nhè nhẹ của loại rau câu do ai đó vừa vớt từ dưới sông lên còn để lại trên mặt đường đê, và lại được dịp nhìn thấy thật nhiều con còng nho nhỏ nhiều màu đỏ, vàng trên bãi cát bên dưới chân đê, cạnh mép nước với những cái càng mập ú đang ùa nhau lủi xuống những cái lỗ hang nhỏ khi nghe tiếng bước chân chúng tôi từ xa… Gần về tới cổng nhà Ngoại, tự nhiên gợi tôi nhớ lại hình ảnh Bà Ngoại nhỏ bé, già nua của tôi đứng trước cổng nhà vẫy tôi theo Bà dẫn đi ăn bánh xèo ở cái quán nhỏ cuối xóm. Tôi sinh ra đời vốn thể chất rất tệ. Má tôi kể, lúc lọt lòng, tôi cân nặng chỉ 2 kí rưỡi, ốm đau quanh năm làm khổ Má tôi không ít. Đã vậy, hồi ấy Ông Bà Ngoại tôi mới có 2 đứa cháu là chị Hai Hằng và tôi, các Dì và cả Cậu Bảy Ời còn chưa lập gia đình, nên Bà Ngoại càng cưng chiều thằng cháu Ngoại đầu lòng là tôi. Các Dì, Cậu tôi hay bị Bà la oan hoài mỗi khi tôi khóc nhè không cần hỏi nguyên cớ vì sao.

Cuộc đời Bà Ngoại tôi thật tội nghiệp! Suốt một đời tảo tần lo cho con, nhất là lo chuyện vợ con cho Cậu Bảy Ời, vì Cậu là con trai duy nhất, còn riêng Bà có mấy ngày vui! Ngày ngày từ mờ sáng Bà tôi đã quẩy đôi quang gánh đầy cá mang xuống bán ở Chợ Lớn Qui Nhơn. Bà qua đời sớm ở tuổi 50 chỉ vì một chuyện không đâu, do ăn cá nóc bị ngộ độc, loại cá rẻ tiền song thịt loại cá này rất ngon, nhưng nếu khi làm thịt vô ý làm dập mật thì rất độc! Mỗi lần đến ngày giỗ Bà tôi, nhìn ảnh thờ của Bà, tôi hay tự hỏi sao trông Bà móm mém già nua đến thế ở cái tuổi như vậy!, “…Rồi Bà qua đời sau một tai nạn bất ngờ ở tuổi ngoài 50, / sau một đời bươn chải mua gánh bán gồng những con cá con tôm từ con sông quê” (trong bài thơ Xóm Cổng Quê Ngoại ngày xưa)

Đông qua Xuân lại, Hạ vàng Thu rơi, dòng thời gian vô cùng trôi đi mang theo ba phần tư đời tôi đến nay ở một đất nước xa lạ đủ lâu đã nên cố quận mà nghe sao hồn mình vẫn không có gì thay đổi. Dạo này, chợt phát hiện mình hay dễ xúc động bất kỳ lúc nào chỉ vì một chuyện buồn tha nhân không liên can gì đến mình. Tôi còn hay lẩn thẩn tự nghĩ, dù phận đời người có vô thường, nhưng ở nơi ấy dù có tôi hay không, nước dưới chân Cầu Đôi vẫn cứ trôi xuôi từ thượng nguồn về ngang qua Xóm Cổng ngày xưa đã từng có Bà Ngoại, Ông Ngoại, các Dì, có Cậu Bảy Ời với ngón đờn 6 câu vọng cổ, và có cả tôi ngày xưa còn bé xíu, trước khi chảy ra cửa biển Thị Nại, đổ ra biển cả Thái Bình Dương — và biết đâu không chảy ngang qua cả nước Mỹ này?

Nhưng có một điều chẳng lạ lùng gì: tôi mãi mãi vẫn không nói lưu loát được thứ tiếng phương xa này, khác với thứ tiếng Mẹ đẻ ngày xưa còn bé tôi đã bắt đầu bập bẹ tiếng nói “ba… ba…” đầu đời trong ngôi nhà Ngoại tôi. Quê Ngoại thân thương của tôi, với những cơn gió nồm trưa hè hay đêm trăng vàng ươm mật, đã từng một thời xa xưa như trong cổ tích vuốt ve tâm hồn tôi, ươm gầy tâm hồn tôi nên một thi nhân. Và thật sự bồi hồi tiếc nuối làm sao: Quê Ngoại còn đó mà đã mù sa rồi… thật sự mù sa… đâu là Xóm Cổng Quê Ngoại của tôi một thuở ấu thơ!, “… Xóm Cổng… Xóm Cổng ngày xưa, cái tên mộc mạc / nơi có những con người quanh năm an phận / cái xóm nhỏ đầy ắp yêu thương có Ông, Bà, Cậu, Dì và bà con quanh xóm / nhớ những đêm trăng lộng gió trên những tàu dừa trước sân / ngày xửa, ngày xưa… / Xóm Cổng còn đó / mà đã thật sự mù sa!” (trích trong bài thơ Xóm Cổng Quê Ngoại ngày xưa)   /.

Stanton California – Mar. 2003 – May 18th, 2025 (3:55 mờ sáng)
“Chừng* nào con lấy vợ hử* con, Hiền…” — phương ngữ Bình Định)
(*P/s, Tản Văn này được dùng làm THAY LỜI NGỎ trong TUYỂN THƠ VĂN MƯA & EM của Lê Minh Hiền ra mắt bạn đọc trong thánh 7/2025)




VVM.20.6.2025.

| UNIVERSELLE LITERATUR | UNIVERSAL LITERATURE | LITERATURA UNIVERSAL | LETTERATURA UNIVERSALE | УНИВЕРСАЛЬНАЯ ЛИТЕРАТУРА |
. newvietart@gmail.com - vietvanmoinewvietart007@gmail.com .