Một lúc sau hắn thấy lòng dịu lại, tự an ủi, chắc là thuốc chưa ngấm. Dưới dốc kia dòng sông loang loáng như đổ dầu. Cuối sông, về hướng biển, trăng cuối tháng vừa cất mình nhô lên khỏi đọt dừa. Một mặt trăng rất to, màu vàng gỉ sét, trăng không tròn nữa, mòn đi về phía trên, giống như tô cơm đầy. Trăng lên cao, anh sáng rập rờn trên sóng nước, nhìn hình ảnh đó một lúc hắn thấy hoa mắt, đầu óc lao đao, giống như người ngồi thuyền trên sóng, một cảm giác chóng mặt nhưng dễ chịu. Hắn thấy làm lạ, mình dân biển, quen sóng gió, lần nầy ở trên bờ nhìn con nước sao lại say sóng?
Hắn nhớ lại lúc trưa, con Thảo đi bán cá về nói ông cụ Luận chữa bệnh hiếm muộn hay lắm, tới cho thầy bắt mạch hốt thuốc. Ông cụ Luận tám mươi chín tuổi, ba đời làm nghề thầy thuốc, bắt mạch xong hỏi tuổi tác hai vợ chồng hắn, hỏi hắn có ăn ngon ngủ được không, đi biển dài ngày, lên bờ thấy đàn bà con gái có động lòng không? Hắn lắc đầu. Ông thầy chắc lưỡi than. Bệnh nặng lắm, thuốc thường chẳng chữa được, phải có cách khác, cách này nữa, không xong thì chạy! Thầy bắt ghế đứng lên vói tay rút cái hộc thuốc bắc để trên cùng đem xuống. Hắn thấy ngoài hộp có dán nhãn để ba chữ nho. Thầy lấy ra một gói giấy lớn, thứ giấy xi-măng tẩm dầu thành màu cánh kiến ràng buộc dây nhợ rất cẩn thận, thầy mở hai ba lớp giấy, trong có lọ thuỷ tinh đậy nút điên điển khằng sáp. Trong chai đựng thứ gì giống như sáp ong, màu ngà. Ông thầy mở nút đưa trước mũi bảo hắn hít ba hơi. Hắn mới hít tới hơi thứ hai đã xây xẩm mặt mày. Trong nhà thầy đầy mùi thuốc bắc, từ khi mở nắp lọ, một làn hương rất đậm, rất sắc trào ra tràn ngập ngôi nhà, xua tan mùi thuốc bắc. Thầy hỏi, thơm không? Thằng Kha há miệng thở mấy hơi mới nói được. Thơm thì có thơm nhưng hắc quá, chịu không nổi, muốn ngạt thở. Thầy nói mùi hương này nó làm cho thằng đàn ông có yếu đuối bệnh hoạn cách mấy đi nữa cũng trở thành dũng mảnh như sơn dương, hải cẩu, chớ không phải nằm bên cạnh đàn bà con gái mà nhũn như con bún thiu. Hắn hỏi thứ gì? Thầy nói:
-Long diên hương.
Hắn lại hỏi Long diên hương là thứ chi, thầy nói, đó là chất ái tình của loài cá voi đánh dấu con đường nó đi trong biển cả mênh mông để người tình tìm tới. Mùi hương phải mạnh mẽ bền bỉ lắm mới không bị sóng gió xua tan, Bỏ trong lọ, đậy nút, nhúng sáp, gói hai ba lớp giấy dầu mà mùi thơm cứ bốc ra, hao mòn dần. Trước khi hắn ra về thầy dặn. Long diên hương là tinh hoa của biển kết tụ lại. Đêm nằm có chiêm bao thấy sóng cũng là sự thường, chớ lo.
Giờ đây thằng Kha ngồi trên bờ sông mới chỉ nhìn thấy sóng đã chếnh choáng, hắn nghĩ là do chất long diên hương. Hắn không dám nhìn xuống nước nữa, hắn đưa mắt qua bên kia sông, dãy núi CÔ TIÊN như cái bóng đen cắt bằng giấy dán ở chân trời. Bóng núi đứng yên lặng trong đêm chứa đầy sự huyền bí. Ngực cô tiên nhô cao, trên đỉnh có khối đá trông như cái núm vú tròn. Bỗng nhiên có một đám mây khổng lồ từ ngoài khơi lù lù bay vào. Đám mây đậu ngay trên chóp nhọn ngực nàng tiên đá. Lúc này trăng đã lên cao, đám mây nhuốm đầy ánh trăng hoá thành khối sáng lấp lánh như dát bạc. Hình thù đám mây chuyển đổi dần, mới đó mà nó đã kéo dài ra hoá thành chiếc tàu ba cánh buồm với cái mũi tàu cong vút, phía sau có bánh lái. Ba cánh buồm căng tròn no gió. Chiếc tàu mây nổi bềnh bồng trên đỉnh núi. Thằng Kha thấy ở mũi chiếc tàu có lổ hổng đen, trong ấy một chiếc neo từ từ buông xuống cắm vào đỉnh nhọn vú cô tiên.
Chiếc tàu mây với ba cánh buồm trắng neo trên đỉnh núi một lúc rồi từ từ tan biến, chẳng để lại vết tích gì. Thằng Kha quay về. Tới nhà hắn tính kêu cửa, lại sợ con Thảo thức giấc. Hắn đứng hút thuốc ngoài sân. Con chó đốm thấy bóng đen chồm ra sủa, con chó đánh hơi thấy người quen không sủa nữa, vẫy đuôi mừng. Con Thảo thức dậy, bưng đèn ra mở cửa, hỏi, nãy giờ đi đâu? Thằng Kha nói đi ra bờ sông ngồi… hắn tính nói ngắm trăng và thấy con tàu mây cho vợ nghe nhưng lại thôi, hắn hẹn để ngày mai lên đỉnh núi Cô Tiên khiêng cái neo tàu về cho vợ con làng nước xem sự lạ.
Hai vợ chồng leo lên giường. Mùa hè con Thảo thường ngủ trần. Hắn nhìn bộ ngực người đàn bà. Da rất trắng, không có vú, xẹp lép như ngực đứa con trai mười mấy tuổi, dễ thương và tội nghiệp chớ không làm cho hắn động lòng được. Hăn nằm nghĩ vẫn vơ một lúc rồi ngủ.
Hắn mới chợp mắt một lúc, xe lửa chạy ầm ầm qua cầu sắt, hắn vùng dậy. Con Thảo giật mình thức giấc theo. Con Thảo hỏi đi đâu? Hắn nói lên núi Cô Tiên. Thảo hỏi lên núi làm chi? Hắn nói láo, kiếm củi. Con Thảo không nói nữa, ngồi dậy gánh cái gánh không với dao thớt chậu nước đi chờ cá lên mua. Hắn nấu cơm ăn một bụng thiệt no, gói cho mình mội gói, phần còn lại dành cho vợ. Vợ chồng hắn lấy nhau đã lâu không con, ăn uống rất đơn sơ, việc nhà cũng chẳng có gì, hai đứa sống với nhau như bạn, như hai người bạn trai, khoẻ nhưng trong nhà chẳng có tiếng khóc con nít nên buồn lắm. Hắn đi biển dài ngày thì thôi, khi về nhà ra quán nhậu ngồi. Buổi chiều vợ đi bán về, hai người lủi thủi ai làm việc nấy rồi lên giường nằm, chẳng có việc gì để bàn bạc với nhau. Hắn với vợ đều chán cái cảnh không có con, tốn tiền thầy tiền thuốc nhiều lắm, đến giờ vẫn chưa có kết quả gì.
Trên đường lên núi hắn nghĩ vơ vẩn một lúc đã tới đỉnh. Hắn leo tới đỉnh núi thì mặt trời cũng lên đến đỉnh trời. Nắng gay gắt. Hắn tìm tới bóng mát gốc cây sung núi ngồi nghĩ trên lớp lá vàng, lá khô. Hắn lấy mo cơm ống nước ra ăn uống. Ngồi chỗ này có thể phóng tầm mắt bao quát một vùng rộng lớn trời biển núi non làng mạc. Có ngọn gió từ chân núi Cô Tiên trào lên. Gió mang theo hơi nước mặn, mùi rong rêu, mùi biển, phảng phất hương vị chất long diên hương. Hắn thấy đầu óc lâng lâng rất dễ chịu. Hắn ăn uống xong ngã lưng trên lớp thảm lá mục, gác tay lên trán nhìn bầu trời xanh thăm thẳm tưởng tượng đến con tàu dát bạc neo trên đỉnh núi này.
Hắn thấy dưới lưng có vật cộm. Hắn ngồi dậy vạch lá khô ra xem. Có một cái vòng tròn bằng đá nhô lên, phần kia cắm sâu vào trong lòng đất núi. Ở giữa vòng đá tròn có lổ, trông giống như người ta xỏ dây neo. Hắn tin đó là chiếc neo của con tàu mây. Hắn lấy rựa đào xung quanh lôi chiếc neo. Đào một lúc dừng lại, hắn nghĩ, nếu kéo neo lên con tàu sẽ trôi dạt đến phương trời xa xăm nào. Hắn không đào nữa, hắn lấp số đất đã đào lên, xong lấy lá vàng lá khô tủ chiếc neo đá.
Thằng Kha cầm rựa chạy xuống núi. Hắn muốn xuống cho nhanh đến làng để kể lại chuyện con tàu mây buông neo trên núi Cô Tiên cho dân làng nghe. Hắn muốn chia xẻ niềm vui cho tất cả mọi người. Trên đường xuống núi hắn gặp lão Ban đang gom bầy dê bát thảo dẫn về nhà. Hắn chặn lão già lại, lão hỏi, mầy làm chi trên núi giờ nầy mới trở về? Hắn nói lên đỉnh núi Cô Tiên. Lão hỏi lên trên đó làm chi? Hắn nói tìm cái neo. Mới nghe qua lão già chẳng để ý. Lão dẫn bầy dê xuống núi. Đi được mấy bước lão thấy sự vô lý trong câu nói. Lão hỏi:
-Mầy vừa nói đi tìm cái chi trên núi Cô Tiên?
Hắn nói:
-Tìm chiếc neo.
Lão già gặng hỏi:
-Mày có nối lộn không đó? Cái neo của ghe xuồng tàu bè cột sợi dây ném xuống sông biển để níu tàu bè lại đó có phải không?
Hăn trả lời rất tự nhiên:
-Phải!
Bay giờ lão thực sự ngạc nhiên. Lão giảng giải. Trên núi làm chi có ghe tàu thả neo mà mày đi tìm? Thằng Kha nói, thế mà có. Lão hỏi:
-Mày tìm thấy không?
-Thấy!
Nghe thế lão không thèm dừng lại nói năng với nó nữa. Lão lừa bầy dê đi, lầm bầm: Hay thằng này cả đời chưa thấy cái neo? Nó chưa biết cái neo là gì, cái neo dùng để làm gì? Dừng lại nói với thằng này uổng công. Song lão lại phân vân, hắn là dân trai bạn đi biển không lẽ không biết cái neo? Thằng Kha chưa chịu bỏ cuộc. Hắn lên tiếng kêu lão:
-Lão Ban, muốn thấy cái neo, để bầy dê ăn cỏ ở đó, theo tui lên núi.
Lão già cắm đầu xua bầy dê chạy xuống núi. Hắn tiếc cho lão già chăn dê không được thấy vật lạ. Hắn cắm cổ chạy theo níu lão lại, lão già tưởng thằng này hoá điên lão càng chạy nhanh hơn. Hắn kêu vang con đường xuống núi, lão già không chịu dừng. Hắn dừng lại thở, ngẫm nghĩ, thôi tới làng kể chuyện cho người khác nghe cũng được.
Chạng vạng tối hắn đi tới làng. Ngang qua quán nhậu chị Liễu, hắn thấy dân nhậu ngồi rất đông. Bọn này tán đủ thứ chuyện. Hắn vào quán kêu thứ rượu pha nước dừa xiêm uống rất dễ say. Lão Hai Tạng nói: “Nhà tao đào cầu tiêu sau hè thấy dưới đất có nhiều mảnh chén bát kiểu, màu men xanh đỏ còn rất tươi, không biết cuộc đất này ngày xưa của ai giàu có đến thế?” . Có người lên tiếng, nhà mụ Bìa đào giếng thấy xâu tiền cổ. Tiền kẽm, tiền chì, có cả tiềng bằng đồng, tiền có ghi chữ Nho, không biết thời nào. Mấy ông già ngồi trong quán uống rượu thuốc nói. Thời xưa người ta thường chôn của qúi để tránh trộm cắp, chiến tranh, sao đổi vật dời . Họ thường đem chôn nồi đồng, thau đồng, lư hương, chân đèn, vàng bạc, có khi chôn cả tiền giấy. Người ta cho tiền Đông Dương vô lọ đậy nút khằn lại đem chôn, mấy chục năm sau đào lên, những tờ giấy bạc còn như mới. Người khác nghe thế cãi. Thời nay tài sản quí giá trong nhà là ti vi, tủ lạnh, xe máy , đem chôn sao được . Còn đồng tiền mất giá ngày một ai lại chôn? Ông Hai người Huế, thường gọi là Hai Huế nói , khi đào cái ao thả cá thấy bên trên lớp đất thịt , đào xuống nữa thấy đất cát , rồi tới lớp đất đen như than, dưới lớp đất này có nhiều vỏ sò hến. Lão kết luận: vườn nhà lão ngày xưa là biển. Lão cảm khái than: “thương hải biến vi tang điền…” Lão nói tới đó có người chận lại. Cái thế đất nhà ông cao quá, không lẽ trước đây là biển? Hai Huế nói, tui đào lên thấy vơ sò vỏ ốc nên đoán nó là biển, mà cũng có thể nó là biển. Mấy thằng nhỏ ngồi ngoài sân nói : “Xạo!”. Hai Huế tức mình, đập bàn hét: “Đứa nào nói tao xạo?” Không có ai trả lời. Thằng Kha nói:
-Không xạo đâu. Tui biết cả một vùng rộng lớn nơi đây trước là biển, kể cả trên đồi, trên đỉnh núi…
Có người chận lại hỏi:
- Sao mày biết?
Thằng Kha bình tĩnh trả lời:
- Biết chớ, biển còn ở trên cao nữa kia… Trên núi Cô tiên có cái… neo!
Hắn tưởng sẽ nghe trong quán dậy lên tiếng hỏi: “Trên núi Cô Tiên mà có cái neo tàu sao?” Nhưng hoàn toàn chẳng có ai chú ý. Mọi người lo nhậu nhẹt chuyện trò. Hắn nhắc lại lần nữa:
-Trên đỉnh núi Cô Tiên, chỗ cao nhất nơi cái núm vú bằng đá có cái neo của con tàu mây cắm nơi đó…
Cũng vẫn chẳng có người nào chú ý. Hắn tức quá hét to: Có cái neo trên núi! Không tin tui dẫn lên coi! Vì hắn hét to quá người ta tưởng có đánh nhau trong quán dừng cả lại nhìn hắn. Hắn thấy đã gây được sự chú ý của mọi người, hắn nói:
-Ở trên núi Cô tiên có cái neo.
Mấy người hiểu ra nói:
-Thằng khùng, có thế mà cũng làm cho người ta hết hồn.
Hắn buồn quá chạy ra khỏi quán trở về nhà. Con Thảo mở cửa cho chồng vô nhà. Nó tránh không hỏi chồng cả ngày hôm nay đi đâu, làm gì. Nó nghe mùi rượu, biết chồng buồn về đường con cái chẳng ra sao nên bỏ đi chơi. Con Thảo hỏi, đã ăn gì chưa? Thằng Kha nói, không ăn, ngồi xuống đây tui kể cho nghe chuyện này. Con Thảo khuyên, thôi khuya rồi, để mai hãy nói. Thằng Kha không chịu. Hắn kể:
-Hồi sáng nay tôi xách rựa lên núi Cô Tiên, thấy có cái neo tàu bằng đá cắm trên đỉnh núi…
Con Thảo tưởng chồng say rượu nói xàm, đứng lên, chui vô mùng, vén mùng lên, nói, thôi vào đây ngủ. Biết đâu tối nay thuốc ông thầy Luận công hiệu. Thằng Kha nghĩ trên thế gian này còn có con Thảo, nó là vợ mình, nó thương yêu mình, thế mà chuyện mình nói ra nó chẳng thèm nghe. Còn tin tưởng vào ai được nữa?
Thằng Kha lòng như lửa đốt, hắn không thể đợi tới ngày mai. Hắn lẽn ra khỏi nhà chạy băng băng lên núi Cô Tiên. Đêm nay ngôi sao bắc đẩu chìm thật thấp xuống chân trời. Ngôi sao như ngọn đèn đỏ treo trên đỉnh núi. Tới nơi hắn vạch lá khô, ngồi xuống, vuốt ve khối đá:
-Thôi cứ ở đó ngủ cho suốt đêm dài vô minh mười năm trăm năm ngàn năm. Chưa biết đến lúc nào trời mới sáng….
Nói xong hắn ra sức khuân đá chồng chất che dấu cái neo. -./.