Việt Văn Mới
Việt Văn Mới
      

NGƯỜI LẠ TRÊN CHUYẾN TÀU ĐÊM



T iếng bánh sắt siết trên thiết lộ đêm khuya, hay không gian yên tĩnh của sân ga luôn có một sức hút lôi cuốn ông. Thỉnh thoảng, không có cơ hội cho một chuyến đi nào, tôi thường ra sân ga chỉ để ngồi thu lu một góc nào đó mà cảm nhận sự đoàn tụ và chia ly.

Sân ga lúc nào cũng buồn, cho dù có hàng trăm người đang vật vờ giữa những hàng ghế. Hay đi lại hoặc dáo dác nhìn ra cửa kính, phía bên ngoài có những con tàu nằm đợi, những đường ray lạnh lùng bất động.

Tôi có một chuyến đi trên tàu đêm, hôm nay trở về.

Tôi mang theo cuốn truyện của Hạnh Thúy, một nhà văn trẻ. Cuốn sách đặt trên bàn, người đàn ông không hỏi mượn, thản nhiên cầm lên đoc. Có người đồng hành mê đọc sách khiến cho tôi vui. Cả hai im lặng, không nói gì cùng nhau suốt một chặng dài. Đoạn đường còn hơn trăm cây số nữa mới đến. Người đàn ông đặt cuốn sách lên ngực, nhìn tôi.

-Truyện viết hay lắm. Tôi vừa đọc xong hai câu chuyện ngắn, cuốn tôi theo. Của anh phải không?

Tôi gật đầu, nghĩ thầm: “Thằng cha này vô duyên thật. Sách người ta, đọc gần hết mới hỏi của ai?”

Người đàn ông cất giọng ríu như chim:

-Anh quê Đà nẵng à?

-Ba phần tư thôi.

-Là sao?

-À, một phần tư còn lại quê miền Bắc.

-À.. tôi không hiểu.

Tôi cười cười, giải thích:

-Cụ Cố nhà tôi giang hồ lãng tử. Từ một vùng đất gần Hà nội hơn trăm năm trước, Cụ rong chơi vào Nam..

-Chắc ông Cụ Cố nhà anh bị đi đày?

Tôi trợn mắt, tự ái dòng họ trổi dậy:

-Đi đày là đày thế nào? Đã nói là giang hồ, lãng tử mà! Nghệ sỹ thứ thiệt đấy. Anh chậm hiểu quá!

-Tôi xin lỗi!

Nghe tôi kể tiếp đây. Đến Quảng bình, đôi chân cụ vướng vào áo ai đó nên dừng lại. Người đàn bà sau này tôi có trách nhiệm thờ cúng. Vậy là cụ nội tôi ra đời. Đến đời ba tôi lại tiếp bước giang hồ ông cụ cố, phiêu lưu vào Nam cùng với người em gái, là bà cô của tôi. Một chiều đẹp trời, chàng trai mang theo nỗi buồn viễn xứ, lang thang bên bờ sông Hàn thơ mộng, gặp cô gái xinh đẹp vốc nước rửa chân. Chàng trai ngập ngừng, rồi dừng lại. Người con gái duyên dáng ấy là Mẹ tôi.

Người đàn ông cười hì hì:

-Anh về quê lần nào chưa? Tôi cũng là người Quảng Bình đấy.

-Ô! Vậy à. Tôi về hai lần rồi.

Người đàn ông tiếp tục cầm cuốn truyện lên đọc. Hồi lâu, gấp sách lại, quay sang nhìn tôi:

-Cách đây hơn ba mươi năm, tôi có đi tìm một người Sỹ quan chế độ cũ, chú tôi. Ông cũng như ba anh, lưu lạc vào Nam trước năm Năm mươi tư, sau này đi lính, cấp bậc cuối cùng là thiếu tá an ninh quân đội. Trên chuyến tàu trở về, sau khi đi tìm nhưng không gặp được người chú lưu lạc, tôi tình cờ ngồi cạnh một người đàn ông ốm gầy, xanh xao.

Đường dài ngàn dặm, tôi và người đồng hành ấy nói chuyện với nhau cho ngắn bớt thời gian. Một sự tình cờ, người lạ mặt giới thiệu mình là một sỹ quan chế độ cũ, vừa ở trại ra. Ông ta kể cho tôi nghe nhiều chuyện cổ kim, chuyện gia đình. Ông ấy cứ nhìn ra ngoài cửa sổ, buồn, kể cho tôi nghe tiếp thế này:

“Tôi ở trại được sáu năm, vợ tôi đi theo người đàn ông khác. Lúc nghe tin, tôi rách tươm cả thể xác lẫn tâm hồn. Hôm nay, trở về không biết những đứa con của mình lưu lạc ở đâu nữa. Nhà cửa cũng không còn, đành về lại quê hương, nương nhờ anh em rồi tính chuyện gì đó làm ăn thôi.”

Ông ta kể nhiều hoàn cảnh của bạn tù, nhưng tôi chú ý đến người tù tên N.H bị mất hai ngón bàn chân phải. Một thiếu tá an ninh, người gốc Quảng Bình. Ông nói, không hiểu vì sao lại được về sớm. Tôi hỏi lại rất kỹ những đặc điểm riêng của người tù ấy. Lấy tấm ảnh thời trai trẻ của chú tôi cho ông xem.

Vậy là tôi nhận ra đó là người chú, tôi đã đi tìm mấy năm không gặp.

Tôi hóng hớt :

-Chuyện đó xảy ra bình thường thôi, chiến tranh mà. Biết bao gia đình gặp cảnh dở khóc, dở cười. Người đồng hành tay vẫn cầm cuốn truyện, bực vì bị tôi cắt ngang lời:

-Tôi chưa kể hết cho anh nghe câu chuyện. Không phải là chuyện tôi tìm được chú mình. Mà là câu chuyện đã xảy ra với ông. Thế này, lúc còn đương chức trong chế độ cũ, chú tôi làm bên an ninh quân đội, không rõ là đơn vị nào. Anh em chúng tôi dò la nhiều nơi, cố tìm cho ra ông. Thông tin về ông, tôi mang theo trong hành trình của mình chỉ là một thiếu tá an ninh quân đội, làm việc ở Nha trang.

Không có một tin tức nào về chú tôi, cho đến khi gặp người tù trên chuyến tàu trở về. Thêm một ít thông tin nữa, vài tháng sau tôi quay lại Nha trang, tìm đến phường, nơi chú tôi ở trước đây, nhờ giúp đỡ. Vậy là chú cháu lần đầu tiên gặp nhau.

Ông rất mừng gặp lại đứa cháu của mình. Nhưng cái tính lầm lì, ít nói khiến tôi e ngại. Muốn cùng ông về quê, ông nói để làm lụng kiếm ít tiền vài ba năm sau về cũng được. Trước khi về, tôi hỏi ông vì sao cấp bậc thiếu tá mà ở tù chỉ ba năm, có phải ai đó đã giúp chú không ?

Ông kể cho tôi nghe nhiều chuyện mình đã làm trước đây. Trong đó có việc tra hỏi, kết tội tù binh, do chú tôi quyết định. Ra đảo, ở tù hay không cũng do chú tôi quyết định. Một lần cấp dưới dẫn giải lên một tù binh, người ấy gốc Quảng bình. Hai người con Quảng bình gặp nhau trong hoàn cảnh éo le, kẻ thắng, người thua.

Điều đau lòng là hai người cùng làng, cùng thời với nhau.

Trong phòng làm việc của chú tôi hôm ấy, hai người nói chuyện với nhau về quê hương, về tuổi thơ, cùng làng quê thân yêu của mình. Chuyện trò như hai người bạn lâu ngày gặp lại. Vài ngày sau, chính chú tôi đã giải thoát cho người tù binh đó.

Sau ngày 30 tháng 4, ông trốn vào Sài gòn được năm tháng thì có một người mặc quân phục bộ đội đến tìm. Hỏi chú tôi:

-Anh có phải là N.H không?

Chú tôi giật mình, trả lời:

-Không! Tôi không phải là N.H.

Vài ngày sau, người ấy lại đến và cũng câu hỏi cũ. Chú tôi trả lời như trước. Một tuần sau đó, có chiếc xe jeep chở bốn người vũ trang đến còng tay chú tôi, đưa thẳng vào trại giam. Trong suốt hơn ba năm ở trại, tháng nào ông cũng nhận được thực phẩm, có khi áo quần tiếp tế, nhưng không rõ ai đã gởi cho mình. Ra trại trong sự ngỡ ngàng của mọi người, chú tôi không hiểu vì sao mình lại được tha sớm như vậy?

Về nhà một thời gian ngắn, chú tôi được người cán bộ đến thăm. Ông ta đi xe jeep, có tài xế lái, mang quân hàm cấp tá. Người đàn ông ấy cười với chú tôi. Hỏi:

-Anh còn nhớ tôi không?

-Dạ! Thưa cán bộ, tôi thật lòng không nhớ.

-Tôi chính là người thường xuyên gởi thực phẩm vào cho anh đấy.

Chú tôi tròn mắt ngạc nhiên:

-Vậy chính là cán bộ đã gởi cho tôi sao? Tôi không hiểu.

-Không có gì. Tôi chỉ làm công việc bình thường thôi. Thật ra, tôi chỉ làm cái việc trả ơn anh lần đó đã cứu mạng tôi. Anh và tôi là người cùng làng với nhau, còn nhớ không?

Tiếng còi tầu rít lên hồi dài, gã đồng hành dừng câu chuyện đột ngột.

Câu chuyện của tôi và người đàn ông cùng buồng đến đây bị cắt ngang vì tiếng loa trên tàu vang lên: “Tàu chuẩn bị vào ga. Qúy khách xuống ga Đà nẵng, chuẩn bị hành lý ..”

Tôi loay hoay, hành lí chẳng có gì nhiều, ngoài túi xách nhỏ chứa mấy thứ lặt vặt. Câu chuyện của người đàn ông cùng buồng kể cho tôi nghe không biết có thật không? Nhưng lúc đi ra hành lang, quay đầu lại, tôi thấy gã nhìn tôi, gật đầu mỉm cười. Khuôn mặt gã phảng phất chất quê chất phác, tôi tin đó là câu chuyện có thật.

Chợt nghĩ, dù ở bên này hay bên kia, bản chất con người Việt Nam mình luôn có một trái tim nhân hậu.

Chuyến đi ba mươi sáu giờ của tôi kết thúc, bất ngờ như những câu chuyện tôi đã nghe được.

Bất ngờ nữa là vợ tôi đang vẫy tay, hân hoan đón chồng về.  -./.




VVM.19.04.2025.

| UNIVERSELLE LITERATUR | UNIVERSAL LITERATURE | LITERATURA UNIVERSAL | LETTERATURA UNIVERSALE | УНИВЕРСАЛЬНАЯ ЛИТЕРАТУРА |
. newvietart@gmail.com - vietvanmoinewvietart007@gmail.com .