Kỳ II.
17/03/1975
Hình
như tôi có “ngủ ngồi “được một chút, khi giật
mình thức dậy tôi có cảm giác mình đang trôi đi, thì
ra xe đang chạy, trời chưa sáng hẳn vạn vật còn bàng
bạc hơi sương. Chị Bích nhìn đồng hồ đeo tay: 5 giờ
sáng rồi.
Xe đi qua thị trấn Măngyang, một thị trấn nghèo
nàn hai bên đường là những căn nhà thấp nhỏ bán đủ
thứ lặt vặt, người dân thị trấn nhìn đoàn người
chúng tôi bằng những đôi mắt tò mò đầy ái ngại, cũng
có vài gia đình đang đón xe để đi, họ được chia ra
và xếp vào những xe có thể nhét được 1 hay 2 người.
Quãng đường này xe chạy chậm lắm và thường bị ngừng
lại, bên kia đường ở khoảng đất trống có một cái
lều bạt mang dấu hiệu cứu thương; vài anh lính chạy
ra chạy vào lăng xăng hối hả, một ông sĩ quan mặc áo
blue trắng đó là bác sĩ quân y, ông ta xách túi cứu thương
ra khỏi lều đưa tay áo lau mồ hôi trán, chúng tôi hỏi
thăm họ cho biết có một chị trở dạ sanh con trên đường
di tãn, bà An lắc đầu thở dài nói với chị Bích: “tội
nghiệp quá”.
Tin
tức ở phía trước chuyền ra sau không mấy tốt:
“VC đang đánh đâu đó phía bên hông,” mọi người xanh
mặt lo lắng khi tiếng súng nghe gần lắm rồi, đạn pháo
lại càng dồn dập hơn, đoàn xe thì vẫn chạy rất chậm
mà xe càng chạy chậm nổi lo sợ càng dâng cao.
Sáng nay
trời không có nắng và hơi se lạnh, xe “trôi qua ”những
buôn thượng nghèo nàn hiu quạnh chỉ lèo tèo mấy nóc chòi
tranh, một nhóm nhỏ người thượng đen đúa đàn ông đóng
khố, đàn bà quấn xà rông, con nít ở truồng; họ đi thành
hàng dọc người nọ nối tiếp người kia trên mặt đầy
nét khắc khổ, họ nhìn chúng tôi với cái nhìn ngơ ngác,
lạ lẩm. Qua khỏi thị trấn Mangyang đoàn xe ngừng lại
khá lâu, chúng tôi được phép xuống xe để “vệ sinh
cá nhân…” vươn vai, duổi chân.
Bà An biểu Ngân phát
cho mỗi người một nắm cơm chấm với muối mè, ăn cũng
ngon, mấy đứa con của chị Bích rất ngoan, không khóc nhè
hay đòi hỏi gì cả, bé Ly Ly mới mười tháng tuổi bình
yên rúc vào ngực mẹ không biết sợ hãi là gì, bà An không
cho chúng tôi ăn nhiều bà lo xa: phải dè xẻn, vì sợ ngày
đi còn dài…, được lệnh chúng tôi lên xe đi tiếp, dù
ngồi chung một xe nhưng những người thuộc gia đình khác
với gia đình chị Bích không ai nói chuyện với nhau, người
nào cũng mang một tâm trạng nặng nề cùng với nổi lo
riêng, theo sự phỏng đoán của anh Đạt -
là thiếu úy
bộ binh - thì đoàn xe này sẽ đến Suối Đôi, rồi từ
Suối Đôi qua đèo MăngYang, sau đó đến Song An
(giáp ranh
Qui Nhơn) tiếp đến Phú Bổn tới Tuy Hòa rồi từ Tuy
Hòa về Nha Trang, đó là lộ trình từ Pleiku về Nha
Trang, còn từ Ban Mê Thuộc về Nha Trang thì theo lộ
trình khác là đổ xuống hướng Qui Nhơn, qua Phú Bổn,
đến Tuy Hòa rồi về Nha Trang nhưng hình như mọi ngã
đường đều bị nghèn nên đoàn xe cứ trôi đi không
còn phương hướng, không biết Ban mê Thuộc còn hay
mất?, tôi hỏi anh Đạt:
Vậy mình đến cầu Suối Đôi chưa anh?
Anh Đạt nhún vai:
- Nếu cứ bị nghẽn như thế này thì... biết đến bao
giờ vì Cầu Suối Đôi cũng còn xa...
Xe
chạy được một đoạn ngắn thì dừng lại,
những chiếc GMC đậu san sát nối đuôi nhau chỉ cách nhau
chừng nữa mét. Lúc này là 7 giờ sáng, chúng tôi xuống
xe đi bộ một đoạn ngắn tìm một lùm cây ven đường
để giải quyết việc riêng… lúc quay trở lại gần xe
của mình, tôi gặp một số học trò có cả Dũng em họ
tôi con của cô (em kế cha tôi) là Thiếu úy cảnh sát, Dũng
yêu Hiền; cô con gái của ông Vơn kế toán trường
tôi, Dũng thường đến trường tôi thăm người yêu,
không ngờ hôm nay lại gặp nhau nơi đây, mừng quá nhưng
chỉ hỏi thăm nhau được vài câu ngắn ngủi mà thôi,
gặp nhau trong hoàn cảnh chung như thế này chúng tôi cảm
thấy thật bùi ngùi, cậu bé Ân –học sinh lớp 9 của
tôi nói đùa:
Cô ơi, hôm nay nhóm em phải nộp cho cô bài thuyết trình
“Tình yêu qua ca dao Việt Nam,”mà… tụi em quên làm bài
rồi, cô cho mhóm em hẹn lại bữa khác nha cô.
Tôi cười:
- Đến Nha Trang phải nộp bài cho cô, không được quên.
Một em khác hỏi:
- Thưa cô, cô dạy Địa lý vậy đây là đâu hả cô?
- A, đây là nơi chúng ta gặp nhau bất ngờ nhất, bi đát
nhất và có cùng chung hoàn cảnh, số phận như nhau.
Chúng
tôi cùng cười, các em chỉ cho tôi thấy xe các em đi ở
trước xe tôi chừng 5 chiếc, cùng chạy trốn mà bây giờ
mới gặp nhau, tôi hỏi thăm về Lý, cậu học trò giỏi
văn nhất lớp 9A1 và bàng hoàng sững sốt khi nghe câu trả
lời “Lý vào mật khu trước đó mấy ngày, cha của Lý
là VC nằm vùng,” tin này cũng chỉ được chuyền miệng
nhau giữa các em học sinh lúc các em còn ở Pleiku.
8 giờ
sáng đoàn xe đi tiếp, hôm nay chúng tôi không còn được
yên tâm như hôm qua, vì súng nổ rất gần và tiếng đạn
pháo kích ầm ầm đều đặn dội rung cả mặt đất, những
viên Sĩ Quan và lính bộ binh, Quân vận áp tải đoàn xe
di tản đang cố trấn an mọi người, họ có vẻ lo lắng
cho đoàn xe di tản này ghê lắm, gặp những ca bịnh bất
ngờ, nguy kịch, lập tức xe phải tấp ngay vào lề trống,
các anh lính quân y căng lều bạt cứu chữa cấp tốc, các
bác sỉ quân y và y tá đều tận tụy chu đáo Không đơn
giản là đi một mạch về đến nơi đã định, Trong xe
có tiếng bà An khóc, ông An ôm bà dổ dành, chị Bích thở
dài lo cho anh Thi, chị sợ hãi vì 4 đứa con của chị còn
quá nhỏ, nhất là bé Ly Ly… còn tôi, tôi chẳng nghỉ ngợi
gì được nữa, đầu óc tôi đặc cứng.
9
giờ sáng đoàn xe đến Phú Bổn thì ngừng hẳn,
chẳng thể nào nhích lên được nữa, tất cả bị dồn
cứng lại,
bây giờ thì tiếng nổ nghe sát ngay bên lổ
tai và thấy rỏ những cụm khói đen bốc lên cùng ánh lữa
của đạn pháo, như thế có nghĩa là chúng tôi đang chạm
người vào cuộc chiến này rồi đây, không phải chỉ là
nghe trên radio hay đọc trong các tờ báo, hình như bên ta
không phản công thì phải, tôi hỏi một anh Đại úy trên
ngực áo mang bản tên Cần: phía bên nào đang bắn dử vậy
anh? Anh cho biết phía bên vc đang pháo kích vào đoàn xe của
dân di tản, họ cố chặn dân lại không cho đi, bên Cộng
Hòa không dám phản công vì sợ vc trả đũa bắn ngay vào
đoàn xe chở dân. Rất gần phía trước xe chứng tôi chừng
3 chiếc, một tiếng nổ rất lớn… “Ù… ẦM…”; Sau
tiếng nổ là những mảnh sắt tung lên trời cùng với khói,
lữa. Rồi… chéo.. ầm.. ở phía sau xe chúng tôi… chéo…
ầm… phía bên hông,... sau mổi tiếng nổ lớn là một
chiếc xe bị hất tung lên cao vở vụn ra từng mảnh kèm
theo khói và lửa, một khung cảnh hổn loạn kinh hồn
diễn ra, anh Đạt hối cả nhà nhào ra khỏi xe và nằm
sấp xuống ngay, hai tay ôm đầu kéo sát ngực lưng đưa
ra, vừa im tiếng nổ chúng tôi nhỏm dậy chạy theo anh Đạt,...
lại: chéo… ầm… Ôm đầu nằm xuống... trước mặt,
sau lưng, bên trái bên phải, đâu đâu cũng có đạn pháo
tung trời, tất cả hoãng loạn, nhốn nháo, mọi người
cố tìm đường chạy cho nhanh, cho thoát khỏi nơi này, tiếng
khóc la gào thét vang trời, lại một tiếng nổ lớn… “Chéo…ầm
…,” chiêc xe chúng tôi vừa nhảy xuống bỏ chạy lúc
nảy bị trúng ngay trái pháo của vc, nổ lớn hất tung lên
trời, tôi trố mắt nhìn; nó tan ra từng mãnh, có tiếng
đứa học trò nào đó hét lên “: xe cô Thủy kìa, cô Thủy
chết rồi …” Lạy Chúa, Chúa đã cứu chúng con. . chúng
tôi thoát chết trong gang tất, trong đường tơ kẻ tóc.
Cả gia đình nháo nhào chạy theo anh Đạt và Khải, chen
chúc nhau, níu lấy nhau vì sợ lạc nhau, tất cả đoàn người
di tản đỏ dồn về giòng sông nằm bên trái, hàng ngàn
người nhào xuống sông, cố vượt qua bên kia sông mà không
ai thèm biết sông sâu hay cạn, cứ chạy bừa xuống.
Chúng tôi đang ở đầu cầu Suối Đôi - Phú Bổn - đoạn
đường cây số 168, tỉnh lộ số 7, chung quanh tôi là
cả một rừng người nhốn nháo hổn loạn, kẻ chạy lui
người chạy tới; mẹ tìm con vợ gọi chồng loạn xạ
cả lên, họ gào thét la khóc réo gọi tên nhau… đôi mắt
họ mở lớn thất thần căng ra hết cở như muốn bị
rách toát để tìm nhau. Không còn có âm thanh nào kinh
hãi bằng thứ âm thanh này, tiếng súng vẫn thản nhiên
nổ rền không ngớt hòa chung với tiếng la hét kêu khóc
vì đau đớn, lẫn lộn trong máu là xác người nằm
chồng chất lên nhau, có người vừa mới té xuống
chưa kịp chổi dậy thì bị người khác dẩm đạp
lên mình. Một bức tranh của chết chóc, một âm thanh của
đạn pháo hòa chung với tiếng người rên xiết, kêu gào.
Khúc sông cạn nước nhuộm đỏ màu của máu trở thành
giòng sông máu, chen chúc giữa xác người chết là nhũng
bước chân lội bì bỏm cố vượt qua được bên kia sông
KHÔNG AI CÒN ĐỦ TỈNH TÁO ĐỂ nghĩ rằng bên này sông
hay bên kia sông đều như nhau, tất cả cố mà chạy để
mong mình được thoát, chạy quáng quàng, chạy thục mạng,
vắt giò lên cổ mà chạy. Ngay từ chổ chiếc xe mà
chúng tôi đi bị nổ tung thì hầu như mọi ngã đường
về Nha Trang đều đã bị chận lại hoàn toàn, tấc
cả các xe bị dồn cứng không còn lối thoát, mạnh
ai nấy nhảy xuống xe mà chạy.
Chúng
tôi bám vào nhau lội xuôi theo dòng sông, đạn bay chéo chéo
trên đầu, đạn rớt lỏm bỏm sau lưng, đạn rơi vô tình
trước mặt; có vô số người trúng đạn ngã xuống,
máu hòa vào nước nhuộm đỏ cả dòng sông, máu thấm
vào đất, máu bám vào mổi bước chân của người
còn sống đang thốn chạy, máu làm tôi hoa cả mắt,
xác người chết nhiều quá làm đầu tôi choáng váng
đảo điên. Nhưng bổng nhiên tôi không còn sợ hải nửa
bởi vì tôi đang ở trong nó, hòa nhập vào với nó, điều
đáng chú ý bây giờ là sự sống còn trước mặt, phải
cố mà giử lấy nó. Chúng tôi dẫm lên xác người mà chạy,
chúng tôi lội trong máu mà đi, mỗi người lớn chúng tôi
nắm chặt tay một đứa con chị Bích, chị Bích ôm cứng
bé Ly Ly, vạch vú cho bé ngậm, với núm vú và hơi ấm của
mẹ, bé bình yên ngủ say. Ông An với Minh dìu bà An mỗi
người một bên, vì lúc này toàn thân bà mềm nhũn, hai
chân bà cứ ríu lại với nhau, sự sợ hải làm bà như
bị tê cứng.
Hai
lổ mủi của tôi như bị nghẹt lại không thở được
vì mùi tanh của máu làm cho tôi loạng choạng suýt
ngả xuống trong khi sau lưng tôi dòng người đang lấn
tới sẳn sàng vô tình dẩm lên tôi. Khải vội vàng
kéo tay tôi lôi đi xềnh xệch, chiếc va li của tôi bình
thường nặng trỉu nhưng sao lúc này tôi lại thấy
nhẹ tênh. Nhờ cái nắm tay của Khải giật mạnh kéo
tôi đi mà tôi giật mình bừng tỉnh cơn mê. Tôi nhủ
thầm: phải cố tỉnh táo để thoát ra khỏi nơi kinh
khủng này, phải mạnh mẽ lên để lội vào trong máu
mà ra khỏi máu, phải vững đôi chân khi dẩm lên xác
của người chết để được sống còn.
Tôi
đã tỉnh táo hơn và chạy nhanh theo Khải, cả nhà chị
Bích không ngớt gọi tên nhau, níu chặt tay nhau để
không bị lạc, mấy đứa bé vừa sợ vừa mệt nên
đôi chân cứ va vấp vào nhau, anh Đạt, hét to bắt
mổi người lớn cỏng ngay một đứa bé trên lưng,
tội nghiệp Ty út tay cứ níu chặt vào lưng Minh trong
khi Minh còn phải cùng với bố dìu bà An kéo
bà chạy theo mọi người. Thấy con nít ngã chết nhiều
quá nên chị Bích khóc lớn và ôm thật chặt bé
Lyly trong lòng.
Tôi
nghe tiếng anh Đạt hét lớn:
-
Mọi người phải hết sức cố gắng để vượt
qua được bên kia sông.
Không
thể nào diển tả được cảnh tượng lúc này,
nó quá kinh khủng, súng vẫn nổ không ngớt
quanh chúng tôi, người ta nhốn nháo tìm nhau bất chấp bom
đạn; trong lúc hổn loạn tôi thấy một chị còn trẻ,
một tay bồng đứa bé nhỏ xíu, tay kia lôi xềnh xệch một
đứa, vừa chạy vừa khóc gọi tên chồng, vừa gọi mẹ
thì “ đoành” một tiếng nổ lớn và…cả ba mẹ
con ngả xuống nằm chồng lên nhau. Một bà già chống
gậy quờ quạng réo tên con trai, bà đang loay hoay thì…
chíu…bà ngã úp xuống cùng với cây gậy, máu từ lưng
chảy ra cho dòng sông thêm đỏ... người chết sao mà nhiều
quá, cứ thế; người ta cuống cuồng dẫm lên tất cả
mọi thứ để mà chạy, kể cả xác người.
Anh
Đạt dẫn đầu, bắt mọi người khum lưng xuống len lỏi
trong những lùm cây ven sông, được một đoạn khá xa anh
lội qua bên kia sông, chúng tôi chỉ biết đi theo anh, cũng
may đây là con sông cạn; vì chưa đến mùa mưa, nước sông
chỉ cao ngang ngực, tôi đội cái vali trên đầu, Ngân, Hoa,
Thắm…mỗi đứa một tay xách đồ một tay nắm tay đứa
khác, Khải cõng Ty Anh trên vai Minh cõng Ty Em, anh Đạt bồng
My Cò trên tay… khi chúng tôi đã qua được bên kia sông,
anh Đạt đẩy mọi người vào một lùm cây rậm núp trong
đó; tiếng súng lúc này đã dịu lại, không còn rát bên
tai và cũng không dồn dập như trước, có lẽ chúng tôi
đã vượt qua được vùng giao tranh ác liệt; vùng đất
của sự sống và cái chết sát bên nhau, trộn lẩn vào
nhau, không rạch ròi phân định. Chúng tôi ngồi nghĩ mệt
và định thần lại, lúc này mọi người mới nhìn nhau;
chị Bích đếm từng người: “Ơn trời đủ cả;” Hằng
bóp tay tôi: “không biết anh Sơn thế nào?”. Bà An khóc
thút thít, Khải cằn nhằn: “Mợ đừng làm chúng con rối
trí thêm nữa”. Chúng tôi nghe có tiếng chân bên ngoài
bụi cây, thì ra rất nhiều người cũng qua đươc bên này
sông, có 2 anh phi công xin nhập đoàn với gia đình chị
Bích, họ vẫn còn cầm súng trên tay, và trên người vẫn
còn mặc bộ đồ bay, anh Đạt kêu họ phải bỏ súng, cởi
bộ đồ pilot để mặc đồ dân sự, Khải lôi trong sacmarin
của gia đình lấy ra 2 cái quần của ông An đưa cho họ,
một người tên Hưng một người tên Phi; ngồi nói chuyện
với nhau, chúng tôi biết là mình đang ở phía trên của
giòng sông Êpa, và vượt qua bên kia suối Đôi, trong lúc
hổn loạn chúng tôi đã chạy ngược về Kontum thay vì men
theo QL để đến đèo Măngyang, bây giờ thì QL này đã trở
thành Đại lộ kinh hoàng rồi. Anh Đạt là sĩ quan bộ binh,
anh am hiểu về địa hình, địa thế, anh và Khải từng
quen với những cuộc hành quân, bèn mở một cuộc họp
nhỏ để phân chia công việc cho từng người; Đạt và
Khải dẫn đầu đoàn người, chỉ huy mọi việc, ông An
chỉ có một việc để làm là dìu đỡ bà An; Ngân, Hoa
lo về việc ăn uống, Minh, Ty, Kiều, Đạt, Khải mang đồ
đạc của cả nhà, - có thêm Đạt Nhỏ là bạn của gia
đình chị Bích ( vì cùng tên với anh Đạt –em trai
của chị Bích – lại nhỏ tuổi nên gọi là Đạt Nhỏ)
đi theo gia đình chị - giống như tôi - phụ mang đồ
đạt; về phần chị Bích, Hằng, Thủy, Thấm, mỗi người
giữ một đứa nhỏ con chị
Theo
lời anh Đạt thì chúng tôi không thể nào đi
theo đường cái quan được; vì đi như thế là rất nguy
hiễm, dể gặp vc hoặc lọt vào ổ phục kích. Nơi đây
gần đèo Măngyang, chẳng biết An Khê còn hay mất? chỉ
là suy đoán vậy thôi; vì việc đòan xe bị pháo kích dữ
dội và bị chận đứng ở Phú Bổn cùng với cảnh người
dân bỏ chạy hoảng loạn vừa rồi, thêm vào đó là những
tràn đạn pháo kích khủng khiếp của vc nhắm vào đoàn
xe GMC chở người di tãn... biết bao nhiêu chiếc GMC bị
hất tung lên trời tan tành thành những mảnh vụn cùng với
xác người... thì An Khê bị mất rồi, anh Đạt quyết định
không đi theo đèo Măngyang mà sẽ quay trở lại đoạn đường
đã đi qua, mặc dù đi theo lộ trình như thế là rất nguy
hiễm, cũng có nhiều người quay trở lại như chúng tôi
sau khi tiếng đạn pháo kích và tiếng súng lơi đi một
chút; nó không còn gắt gao, dồn dập như lúc nảy, những
nhóm người họp lại với nhau thành một đoàn khá đông;
chúng tôi tiếp tục men theo những lùm cây mà đi; làm như
nó che chở được cho chúng tôi. Tiếng súng vẫn còn rải
rác, tiếng pháo kích thưa dần; bây giờ đã trưa lắm rồi,
mặt trời ở ngay trên đỉnh đầu, những vắt cơm bà An
nắm lúc ở nhà giờ đã khô, nhưng đói quá thì vẫn cứ
ngon như thường, mọi người kiếm chổ nghĩ, không ai muốn
nói gì trong lúc này. Bổng nhiên bà An khóc, ông An nhỏ
nhẹ vổ về bà, Khải nóng tính cau mặt gắt nhỏ:
- Mợ cứ làm cho chúng con rối ruột thêm lên, chúng con đã
có đứa nào chết đâu mà mợ khóc.
Chị
Bích thở dài, còn tôi; tôi vẫn có cảm giác mình đi theo
gia đình chị như một nhánh cây tầm gởi nên lắm lúc
cũng muốn khóc như bà An, mà không dám, sợ làm mọi người
khó chịu. Bổng nhiên giữa khoảng đất trống có tiếng
một bé gái kêu khải – vì Khải ngồi phía ngoài rất
dễ thấy:
- Chú ơi; chú
có thấy ba má cháu đâu không?
Câu hỏi ngây thơ của bé làm cho tôi xúc động muốn khóc,
giữa một nơi như thế này và vào lúc này làm sao biết
được ba má cháu là ai, cháu bé đứng bơ vơ, sợ hãi và
run rẫy, Khải ngoắc bé lại, nó chỉ chờ có thế lật
đật vạch lùm cây chui vào. Chị Bích hỏi:
- Cháu con ai?
- Con của ba má, ba con dẫn cu tí, má ẳm bé xíu, ba má chạy
nhanh lắm cháu nắm tay ba chạy một hồi rồi không thấy
ba má đâu cả, cô chú tìm ba má cho cháu với.
Cháu bé òa khóc nức nỡ, Anh Đạt và Hằng dổ dành:
- Nín đi cháu,
cháu phải biết là các cô chú không thể nào tìm ba má
cho cháu được
Hình như
giữa sự sợ hãi và nguy hiểm mà bé đang phải chịu, bé
khôn hẵn lên, nó năn nỉ:
- Cháu sợ đi
một mình lắm, cô chú cho cháu đi theo với.
Tôi nhìn kỷ con bé, nó chỉ độ 6, 7 tuổi là cùng, tóc
cắt ngắn kiểu búp bê, đôi mắt to tròn, đen láy, xinh
xắn, đáng yêu nó mặc 1 bộ đồ bộ cổ bèo, bằng vải
hoa xanh đỏ li ti, nhìn nó lấm lem nhếch nhác Hằng thở
ra:
- Chăm cho 4 đứa cháu của mình khỏi lạc nhau đã mệt
lắm rồi, giờ thêm con bé này, chịu nổi không đây?
Chị Bích đã làm mẹ nên lòng chị bao la hơn:
- Tội nghiệp cháu bé, nó nhỏ bằng Ty Em nhà mình, đem
cháu theo với, mỗi người gắng thêm một chút.
Tôi
thấy hoàn cảnh của bé cũng giống mình, khác một chút
là tôi không bị lạc mất cha mẹ, nhưng cũng đang nương
tựa vào gia đình chị... tôi không dám nói gì.
Có lẽ ba
má và 2 em của bé đã chết banh xác rồi, ai mà biết được.
Tôi hỏi bé tên gì? nhà ở đâu, đi học chưa? bé trả
lời một mạch: “Con tên Lan, nhà ở Kontum, học lớp một;”
Chị Bích biểu Ngân ngắt cho bé một miếng cơm, ăn xong
bé xin thêm vì: “ ít quá à, con ăn không no.” Hằng vuốt
tóc nó, giải thích cho nó hiểu là: “ không đũ cơm để
được ăn no.” Bây giờ gia đình chị Bích có thêm bé
Lan, đoàn người trong nhóm lên đến con số 20. Anh Đạt
nói chúng tôi nghĩ như vậy đủ rồi, phải đi tiếp vì
đường còn rất xa. Bé Ly Ly mở mắt nhìn mẹ, bé nhã núm
vú mẹ ra toét miệng cười, rồi lại rúc đầu vào ngực
chị Bích, ngậm vú mẹ ngủ tiếp, chị Bích ứa nước
mắt:
- Các em à, ngực
chị đau lắm, sữa chị cạn khô, bé Ly có no không đây?
Tôi
thấy trong mắt anh Đạt, Khải, Hằng… có những giọt
nước mắt không rơi ra được, nó ngập ngừng đọng lại
ở khóe; xót xa và đau đớn. Riêng tôi, tôi đang có một
tâm trạng khác, tôi cảm thấy gần gũi với bé Lan hơn,
tôi không ứa nước mắt cho chị Bích vì chị đang có cả
một gia đình bên chị, có bố mẹ, các em, các con chị,
Tôi đang ứa nước mắt cho mình và cho cả bé Lan. Quanh
chúng tôi đoàn người vẫn rất đông, chia thành từng nhóm
nhỏ, như một cuộc cắm trại lớn, nghỉ ngợi lung tung,
tự nhiên tôi bật cười, ai cũng ngạc nhiên nhìn tôi dò
hỏi; tôi nói cảm nghỉ của mình: “Hôm qua cả thành phố
rủ nhau đi du lịch, hôm nay cả thành phố cùng nhau đi cắm
trại,” câu ví von của tôi làm mọi người cười xòa,
chị Bích khen: “giáo sư văn chương có khác, Thủy nhận
xét hay thật,” Hằng nói tôi có máu khôi hài,... ít nhất
thì tiếng cười cũng làm cho mọi người bớt căng thẳng.
Chúng
tôi đi loanh quanh lẩn quẩn mãi mà chẳng tiến xa được
bao nhiêu, trời tối dần, chân đã mỏi, bụng lại đói,
Anh Đạt loay hoay kiếm chổ cho gia đình nghĩ qua đêm - lúc
thu dọn đồ đạc để di tãn - chị Bích đem theo mấy cái
mền và mùng, dồn hết vào cái Sacmarin cùng với áo quần
của cả gia đình chị, số đồ dùng này sẽ xử dụng
tạm thời khi về đến Nha Trang, bây giờ lấy ra xài ở
đây, thật tốt. Anh Đạt, Khải trải mấy cái mền ra giữa
đất cho mọi người nằm. Đêm nay chúng tôi ngủ giữa
rừng trời với cái bụng trống rỗng và toàn thân thì
rã rời, hai chân nhức mỏi, trầy xước vì lúc bỏ chạy
chúng tôi đã quẵng hết guốc dép, cứ chân trần mà chạy
cho nhanh, không còn biết đau khi chân mình dẫm lên sỏi
đá, gai góc, bây giờ thì… khi được nằm được duỗi
thẳng đôi chân rướm máu cảm giác đau buốt rát xé
ruột gan chổi dậy hành hạ chúng tôi, thêm vào đó là
nổi hoang mang hồi hộp: Biết đâu lúc đang nằm đây; một
quả đan pháo ham vui rong chơi ghé thăm chúng tôi và nổ
cái... ẦM... BANH XÁC... hết đường về. Đạn pháo thì
vô tình nhưng con người lại cố ý, còn chúng tôi là những
người vô tội, một bên kéo tay ngừơi ra đi một bên níu
chân người giử lại... ở giữa là THẦN CHẾT. Đêm yên
lặng quá, thèm nghe một tiếng Dế rả rích trong không khí
đầy mùi thuốc súng nhưng dế cũng chạy trốn núp dưới
hang, không dám thở mạnh nữa là kêu cho con người nghe...
Đang yên lặng như thế bổng nhiên có tiếng rên nho nhỏ
đau đớn, rồi thành từng tiếng khóc, ai đó xuýt xoa: “ôi
đau quá ”, tôi rùng mình; mới chỉ có một ngày sống
giữa làn giao tranh, máu lữa, giữa tích tắc của sự sống
và cái chết; một ngày thôi mà sao dài như vô tận, tôi
đã hòa mình vào cuộc chiến, đã tan ra trong nổi sợ hải
cùng với máu và cũng đã dẩm đạp lên xác người mà
đi, thế nhung tôi vẫn được sống, được nằm đây mà
nghĩ ngợi và chờ đợi giấc ngủ đến với mình; Cảm
ơn Chúa đả cho chúng con qua được một ngày, còn bao nhiêu
ngày khác nữa, xin Chúa hảy gìn giữ con.
Đêm
nay nằm giữa núi rừng xa lạ này, bên dưới là giòng sông
Ađun nhuộm máu, bên trên là người chết nằm ngổn ngang,
dù nhắm mắt cố hết sức để dổ giấc ngủ, nhưng những
cảnh tượng và những âm thanh của ngày hôm nay cứ luẩn
quẩn trong đầu tôi, tai tôi vẫn còn nghe những tiếng thét
hãi hùng, mắt tôi vẫn còn thấy người mẹ trẻ ôm chặt
trong tay tấm khăn lông như ôm một đứa bé, phải chăng
lúc bỏ chạy chị đã làm tuột mất con mình mà không hay?
còn nữa; người đàn ông tay dắt đứa con trai nhỏ, tay
ôm bọc đồ; vừa chạy vừa gào tên vợ và con gái; tôi
cũng đã thấy một bà già chạy không nổi, cứ té lên
té xuống; khóc gào: con ơi chờ má với. trời ơi có người
kéo lết một chân, còn chân kia nát bấy cố tìm sự sống,
sau đó gục xuống, ngất đi vì mất nhiều máu và vì đau
đớn, chắc bây giờ ông ta đã chết, không ai cứu ai trong
lúc đó, ai cũng phải tự cứu mình cái đả. Tôi rùng mình;
giấc ngủ không đến được khi hình ảnh nọ nối tiếp
hình ảnh kia, như một khúc phim quay lại, chậm rãi, từ
từ; hiện ra rỏ rệt từng chi tiết; từng đoạn; kìa một
cô gái rất trẻ với bàn tay nát bấy vừa chay vừa ôm
cánh tay bê bét máu, lảo đảo, liêu xiêu, kia nữa; ông
già đang bám vào vai tôi để vượt qua sông, ngang giữa
dòng thì... chíu... ông ngã xuống, tuột khỏi vai tôi, máu
tuôn ra xối xã vì một viên đạn bay trúng ngay đầu, âm
vang của tiếng súng cứ xoáy trong tôi rền rĩ buốt tai,
tôi không muốn nhớ, tôi không muốn thấy lại những gì
đã xảy ra, nhưng sao nó cứ đùa cợt với tôi mãi như
thế này? Những xác chết không nguyên ven, bầy nhầy
trong vũng máu và thịt da trộn lẩn cùng đá, cát.
Có những em bé nằm chết mà như đang ngủ trong vòng
tay ôm của người mẹ cũng đã chết, máu nhuộm ướt
cả hai mẹ con, đau đớn thay khi tôi phải dẩm lên xác
họ mà chạy.
Tôi
cắn chặt môi, nước mắt tôi tuôn trào như mưa; khi đã
khóc được thỏa thuê, thì nổi buồn nhớ riêng tư lại
ập đến: giờ này cha mẹ tôi ở Nha Trang chắc là đang
lo lắng cho tôi ghê lắm, đang như người ngồi trên đống
lữa mà chờ tôi về; cha mẹ có hối hận vì đã ra sức
cấm cản chuyện tình của tôi và anh Bang, đến nổi vì
không thể rời xa anh ấy được mà tôi đã nhất quyết
lên “Phố núi cao ” dạy học, cho chúng tôi đươc gần
nhau, hai chúng tôi đã bàn tính với nhau là để tránh khỏi
sự khắc khe của cha mẹ tôi vì mỗi lần hai đứa hẹn
hò gặp gở nhau mẹ tôi mà biết thì tôi lại bị ăn đòn,
anh Bang đã xin chuyển lên Pleiku trước, chờ tôi học xong
năm thứ ba, đươc ra dạy bên ngoài - vì năm thứ tư tôi
chỉ hoc hàm thụ và làm luận án ra trường – tôi xin lên
Pleiku dạy để hai đứa không phải khổ sở lén lút gặp
nhau nữa, cha mẹ tôi tưởng rằng anh vẫn còn ở Nha Trang
nên khi biết tôi xin đươc nhiệm sở ở Pleiku thì mừng
lắm, nghĩ rằng đã chia cắt được chúng tôi... nhưng
rồi. . . nếu như cha mẹ đừng….; còn anh Bang nữa: anh
có lo, có nhớ, có chờ đợi tôi không? Mặc dù hai đứa
đã xa nhau vì tự ái, vì ích kỷ và vì đủ mọi lý do
không đáng kể. Làm sao tôi quên được ngày đầu tiên
đặt chân đến Pleiku; khi máy bay đáp xuống phi trường
Cù Hanh đìu hiu bụi mù, đất đỏ, anh đã ngồi sẳn ở
đó: ngoài thềm nhà chờ đợi của phi trường từ lúc
nào, tôi bước xuống máy bay mà hai chân như nhảy, anh ôm
tôi trong vòng tay; chúng tôi đã có biết bao ngày tháng hạnh
phúc bên nhau, anh ở trong cư xá, tôi ở ngoài nhà trọ,
anh đi bay, tôi dạy học; bình yên và hạnh phúc, hai đứa
bàn về đám cưới, về cuộc sống chung sau này, ráng một
vài năm để dành tiền tự lo cho đám cưới của mình vì
cha mẹ cấm cản sẽ chẳng lo cho đâu… Cuối cùng là tan
vỡ, là nước mắt như mưa, tôi khóc nhiều lắm và nghĩ
sẽ chẳng còn nước mắt để mà khóc, nhưng bây giờ tôi
lại khóc, khóc cho những điều tôi đã chứng kiến ngày
hôm nay, cho ngày mai đầy bấp bênh, khốn khổ... cuối cùng
thì tôi cũng ngủ được trong nước mắt, một nguồn suối
không bao giờ cạn...
18/03/1975
Một
tiếng nổ lớn và gần làm chúng tôi giật mình thức
giấc, trời dần sáng, cuộc chiến lại bắt đầu sau một
đêm tạm lắng, chúng tôi vội vã thu xếp đồ đạc để
mà chạy, tất cả những đồ dùng nặng, cồng kềnh phải
vất bỏ, tôi xé vội cái áo dài, lấy hai tà áo bó hai
chân, cả nhà làm theo tôi, chân ai cũng rướm máu, phải
lấy áo bó chân mới đi tiếp đươc, chị Bich biểu tôi
phải vứt cái vali, chỉ lấy một ít áo quần và giấy
tờ quan trọng bỏ chung vào trong Sacmarin của gia đình chị,
tôi thã trôi theo sông những đĩa nhạc mà tôi vô cùng yêu
quí, lòng xót xa đau đớn và đầy nuối tiếc như một
phần thịt da của mình phải bỏ lại. Hôm nay tiếp tục
men theo giòng sông đỏ máu mà đi, không thể chậm rải
được, chúng tôi càng chạy, trời càng sáng, súng nổ càng
nhiều, mọi việc lập lại như ngày hôm qua, những người
lính vừa chạy vừa cởi bỏ bộ đồ lính đang mặc như
chối bỏ thân phận mình, họ chỉ còn trên người cái
quần xà lỏn và cái áo may dô; súng, giày, quần áo lính
vứt ngổn ngang, có người dẫn theo vợ con cha mẹ, có người
đi cùng với nhau. Nơi đây chúng tôi có cùng một nét mặt:
sợ hãi, kinh hoàng, và hốt hoãng… đoạn đường này xác
chết nằm la liệt, ngổn ngang đủ mọi tư thế; già có,
trẻ có, và có cả những em bé, bao nhiêu là người chết
nằm chồng lên nhau... Anh Đạt lục túi một anh Thiếu
úy bộ binh vừa mới chết; máu vẫn đang còn chảy trên
ngực; anh lấy được tấm bản đồ không còn nguyên vẹn,
nó bị rách một góc, nhưng đối với anh Đạt thì lúc
này tấm bãn đồ rất quí, rất cần thiết.
Súng
lại nổ dữ dội, rền và rát bên tai, lại cuống
cuồng đua nhau mà chạy, bên vệ đường một phụ nữ nằm
nghẽo đầu, máu đầy người, chị chết rồi; trên bụng
chị là một đứa con gái còn rất nhỏ khoãng 5, 6 tháng
nó đang ngậm vú chị nhay nhay cố nút sữa, tội quá; tôi
đẩy My Cò qua tay Kiều để bế đứa bé lên; bị giật
ra khỏi vú mẹ bé khóc thét, có tiếng hét vang lên rất
lớn trong đầu tôi bắt tôi phải trả bé lại trên người
mẹ nó nhưng tôi không đành tâm thả bé xuống khi mẹ
nó đã chết và nó thì còn bé xíu; thật tình tôi muốn
ẳm bé theo mặc dù... biết lấy gì nuôi bé đây? ngay cả
chính tôi còn chưa biết mình sẽ ra sao, vừa ngay lúc đó
có một chị đang dáo dác nhìn quanh mắt mở to tìm kiếm,
sữa từ vú chị chảy ướt cả hai vạt áo, miệng chị
gào khóc thãm thiết: “anh ơi, con ơi;” tôi vội vàng ấn
nhanh đứa bé vào tay chị và cuống cuồng chạy theo Khải
chỉ sợ bị lạc mất, chỉ trong một tích tắc với
phản xạ tự nhiên chị ôm ngay đứa bé vào lòng và chạy
theo chúng tôi, chuyện xảy ra chỉ trong một tích tắc
như một cái chớp mắt mà thôi cứ thế chúng tôi
men theo giòng sông, lẩn trốn trong từng bụi cây hể ngưng
tiếng súng là chạy súng nổ dồn là núp, cố chạy và
chạy làm sao cho xa được tiếng súng càng xa càng tốt.
Thật sự chúng tôi không biết mình đi được bao nhiêu
mét đường dài và bao nhiêu thời gian, điều cần biết
nhất là cố gắng làm sao để được sống còn.
Mãi tới lúc bên tai chúng tôi không còn tiếng nổ rát
và mùi thuốc súng khét lẹt ngạt cả mũi nữa mọi người
mới dừng chân, định thần nhìn lại quanh mình, hình như
chúng tôi đã thoát ra khỏi vùng giao tranh ác liệt nhất
và đang ở giữa một khu rừng thưa có con đường mòn
phủ đầy lá vàng, cạnh khu rừng là giòng sông cạn thấy
được những hòn đá dưới đáy sông, tôi khát nước quá
còn anh Đạt điểm danh từng người trong gia đình, không
thiếu một ai cả, bé Lan rụt rè nắm lấy tay tôi, tôi
kéo bé ngồi xuống bên cạnh mình, người đàn bà bồng
đứa bé mà Khải trao cho lúc nãy đang ngồi vạch vú
cho đứa nhỏ bú; nó ngoặm lấy vú chị bú một cách say
sưa ngon lành mà không thèm nhận ra mùi hơi hay bầu vú
không phải của mẹ mình, và người đàn bà dịu dàng nhìn
đứa bé ánh mắt chị đầy trìu mến yêu thương. Chị
đã mất và chị đã có – ngay lập tức – chị cũng không
cần nhận ra đó có phải là con của mình hay không? làm
sao giải thích được điều kỳ diệu này? và có ai có
đủ sự thông thái để phân tích? Chỉ có Thượng Đế
mà thôi. Tôi nhìn chị: nụ cười của chị ấm áp và đôi
mắt của đứa bé sáng rực; tôi đã cứu bé còn Khải
thì cứu chị...
Không
có nhiều thời gian để ngồi nghỉ, anh Đạt bắt đi
tiếp, càng xa nơi đây càng tốt, vẩn phải chui trong bụi
rậm, vạch lùm cây mà đi, hai tay, hai chân chúng tôi trầy
xước rướm máu vì bị gai đâm vào, giữa lúc này không
ai xác định được phương hướng hay có sự lựa chọn
nào, cứ nhắm phía trước mặt mà chạy và cố tránh
những nơi trống trải, khi cảm thấy chung quanh mình đã
có phần yên ắng, chúng tôi chui vào một lùm cây ngồi
nghỉ, bé Ly cựa mình muốn khóc chị Bích vội vã vạch
vú dúi vào miệng bé, chỉ sợ bé khóc làm lộ nơi ẩn
núp. Đâu đây có tiếng nói lao xao giọng năng chịch rất
khó nghe, anh Đạt vạch lùm cây nhìn ra mắt anh mở lớn
đầy kinh hãi miệng anh há hốc anh lắc lắc đầu thở
dài: “Thua rồi, chết chắc luôn,” trái tim tôi như bị
ai bóp nghẹt lại thở không nổi, tay chân bủn rủn thân
thể cứng đờ; điều mà chúng tôi đang trốn chạy đem
luôn cả sinh mạng và tài sãn của mình ra để đánh cược
suốt mấy ngày nay; bây giờ đang ở đây mà nạt nộ quát
tháo ra uy; và đây cuôc chiến mới thật sự bắt đầu
sau khi đã trải qua bao nhiêu chết chóc kinh hoàng phi nhân,
phi lý.
Một
đoàn người đi ngược lại phía chúng tôi với những
đôi mắt lơ láo thất thần, nét mặt đầy sự sợ
hải mệt mỏi cùng cực, một người nói nhỏ vối chúng
tôi: “ông vc sau lưng chúng tôi họ lùa chúng tôi bắt
phải quay về.” Mấy người con trai trong đoàn chúng tôi
run lẩy bẩy còn bà An thì như muốn xỉu vào tay ông An,
bọn con gái chúng tôi không ai dám thở, kỳ quá đi làm
như nếu thở thì vc nghe được. Vừa lúc đòan người đi
qua khỏi chúng tôi thì có một ông lính vc áp tải đi
sau cùng, thấy chúng tôi đang lum khum ngồi trong bụi rậm,
ông ta kêu đoàn người đứng lại rồi vẩy tay ra lịnh
cho chúng tôi chui ra khỏi lùm cây, nhập vào đoàn người
mà ông ta đang áp tải, bắt tất cả ngồi xuống trên một
khoãng trống của khu rừng bên con đường mòn đầy
bóng cây cao mát rượi, ông ta hắng giọng sữa điệu
bộ rồi nói với một bộ dáng rất hống hách, nạt
nộ đầy đe dọa:
- Sao hả, nhân dân muốn chạy trốn hả? Nhân dân muốn
theo chân thằng Thiệu chứ gì? Nhân dân không biết rằng
bộ đội cụ Hồ phải băng rừng lội suối nằm gai nếm
mật, hy sinh thân mình để vào Nam giải phóng cho nhân dân
khỏi bị áp bức của thằng Mỹ, thằng Thiệu không hả?
Tôi
gạt nổi sợ hải qua một bên để quan sát
ông ta cho thật kỷ; cái người tự xưng: “bộ đội cụ
Hồ ” này là một người đàn ông chừng 40 tuổi, nét
mặt khắc khổ đen đúa hai hàm răng chìa ra nhấp nhô vàng
ố có chổ đen kịch, nếu ngậm miệng lại thì hai cái
môi vẫn không làm sao che kín được hai hàm răng, đôi con
mắt sâu hoắm tròng trắng nhiều hơn tròng đen, bộ lông
maỳ rậm châu sát vào nhau, lổ mũi tẹt và hai cánh mủi
hếch cứ phập phà phập phồng, tôi kết luận: đây là
một người đàn ông XẤU, ông ta mặc bộ quần áo kaki
màu ôliu nhàu nát rộng thùng thình, chân mang đôi săng đan
đen bằng cao su hai quai chéo nhau phía trước để lộ mấy
ngón chân có những móng đầy đất, một quai quàng sau cái
gót chân đen sì nứt nẽ (sau này tôi mới biết đó là
đôi dép râu cụ Hồ), trên vai ông ta đeo một cái radio
nhỏ hơn quyển tập học trò hình chữ nhật tay cầm khẩu
Ak, ông ta kéo cái radio ra trước ngực cố ý cho chúng tôi
thấy, từ chiếc radio phát ra 1 giọng ca nữ: eo éo lanh lãnh
xoáy buốt cả óc, ông ta tỏ vẻ rất hãnh diện về cái
radio đang đeo bên mình và cho rằng chúng tôi là những kẻ
lạc hậu, chưa bao giờ thấy được nền “văn minh radio,”
nên ông ta cứ đưa tay ve vuốt nhúc nhích xê dịch cái máy
phát thanh để chúng tôi phải nhìn, đã thế lại còn mở
volume cho lớn, giọng nói nặng chịch của ông ta hòa cùng
với tiếng ca đinh tai nhức óc của cô ca sĩ làm đầu tôi
muốn vở tung, mọi người đều rất khó chịu khổ sở
vì “đôi tai bị hiếp dâm”. Ông vc thao thao tuyên truyền
về XHCN, về bác Hồ, về Đảng CS, tuy lối nói và điệu
bộ của ông ta đầy sự hách dịch của kẽ chiến thắng
nhưng sao tôi vẫn thấy nơi ông ta có một vẻ đần độn
lố bịch dốt nát quê mùa đến tội nghiệp, dù ông ta
cố tình huênh hoang lên mặt và hơi có vẻ đe dọa với
những người đang bị bắt buộc phải nghe ông ta nói nhưng
chúng tôi nghe mà như “vịt nghe sấm” một tràng giang
đại hải về Mác lê nin, về cuộc sống thiên đường
chúng tôi sẽ được hưỡng nếu đi theo bác và đãng, rồi
hợp tác xã và những gì gì nhiều lắm không nhớ nổi.
Sau
khi nạt nộ, tuyên truyền, giảng dạy, khoe khoang lẫn đe
dọa đã đời, ông ta sờ vào cái radio và an ủi chúng tôi:
- Nhân dân theo tôi về nhà mình, sau này nhân dân mỗi nhà
cũng sẻ có một cái đài như tôi đây để nghe tin tức,
nghe nhạc thích lắm nhé; đây là nền văn minh của nước
XHCN, vì nhân dân bị thằng Mỹ, thằng Thiệu cai trị nên
không thấy được sự tiến bộ này, nhân dân xem nhé; bộ
đội giải phóng mỗi người đều có một cái đài như
thế này đấy.
Và
như muốn khoe thêm về sự kỳ diệu của
cái đài, hai ngón tay ông ta se lui se tới vặn volume cho âm
thanh lớn thật lớn rồi bất ngờ nhỏ lại… rồi thật
lớn... rồi nhỏ lại… lúc này thì tôi sắp nổi khùng,
tôi bấm tay Hằng, hai đứa muốn cười thật to nhưng không
dám, và tôi cũng muốn hét lớn lên rằng: “–chúng tôi
đâu cần các anh giải phóng, chúng tôi đang sống rất vui
vẽ ấm no hạnh phúc”… nhưng lở ông ta nổi giận chỉa
súng vào hai đứa tôi mà bắn cái... đùng...thì.. chết
oan mạng. Ông lính vc kết thúc bài tuyên truyền của mình
bằng một cái khua tay và lớn tiếng ra lịnh:
- Nhân dân đứng dậy đi tiếp không được bỏ trốn đấy
nhé.
Lời nói và hành động cũng như nhũng sự việc
đã xảy ra là một mâu thuẫn không thể nào tưởng
tượng nổi, nó thật khôi hài và đầy bi thảm, mọi người
uể oải chậm chạp đứng dậy, thân thể rả rời. AnhĐạt
nháy mắt ra dấu cho chúng tôi đi thụt lùi rất chậm sợ
ông vc để ý. Cả một đoàn người lôi thôi lếch thếch
lê bước trước họng súng của ông ta, người phụ nữ
ôm đứa bé trên tay quay nhìn chúng tôi lần cuối, cái nhìn
chất chứa nổi tuyệt vọng lẫn đau đớn buồn rầu, hai
giọt nước lặng lẽ rơi ra từ khóe mắt của chị, bước
chân chị ngập ngừng xiêu vẹo... Chúng tôi đi theo kiểu
thụt lùi và bỏ xa họ, anh Đạt truyền lệnh: cùng nhau
quay đầu lại rồi tìm chổ núp. cũng chui vào một bụi
cây to ngồi nghỉ, anh Đạt suy luận:
- Hắn đưa mình về lại Pleiku, vậy là hắn đã chiếm
đươc Pleiku rồi, mình đi ngược lại hắn như thế phía
trước mặt của mình vẫn còn là vùng của quốc gia.
Lời
nói của anh Đạt gieo vào lòng chúng tôi một niềm hy vọng
rất lớn, đủ để cho chúng tôi hăng hái tiếp tục bước
trên con đương đầy chông gai nguy hiểm mà về đến miền
đất Tự Do, chưa bao giờ như bây giờ hai chữ TỰ DO quí
đến thế, nó đánh đổi biết bao nhiêu sinh mạng con người...
phải đứng lên mà đi tiếp, nhưng... chưa đi được bao
nhiêu thì... chúng tôi chới với khi gặp thêm một đoàn
người đi ngược lại, cũng giống hệt như đoàn người
lúc nãy: lôi thôi lếch thếch, mệt mỏi kéo lê từng bước
rả rời với đôi mắt đầy tuyệt vọng và đau khổ, áp
tải họ cũng là một ông vc; ông ta chỉa súng vào lùm cây
ra lịnh cho chúng tôi bước ra nhập vào đoàn người mà
ông ta đang áp tải và bắt tất cả ngồi sát vào với
nhau,, mọi thứ trên người ông này: từ điệu bộ huênh
hoang; hống hách, áo quần luộm thuộm, đôi dép râu…,
cho đến lối tuyên truyền, khoe khoang về cái đài; luôn
cả điệu bộ ve vuốt, se se nút chỉnh âm thanh... đều
giống hệt nhau, làm như họ đươc đúc ra từ một khuôn
mẩu có sẵn, trông thật buồn cười, tội nghiệp đến
đáng thương theo một nghỉa nào đó, nhưng họ vẫn là
người thắng cuộc vì vậy họ cho mình được quyền nạt
nộ, lớn giọng với chúng tôi; là những người đang trốn
chạy những kẽ mà chúng tôi chê bai... Đó là một điều
nghịch lý, khôi hài cười ra nước mắt.
- Bây giờ nhân dân theo tôi về nhà, đừng tìm cách trốn
đấy nhé, nói cho mà biết không ai trốn được chúng tôi
đâu đấy.
Một câu nói đầy đe dọa, ông ta hất hàm ra lịnh cho mọi
người đứng lên đi tiếp “về nhà, ”…Cũng theo cách
của anh Đạt như lần trước; cả gia đình đi thụt lùi,
trông ngộ nghỉnh tức cười hết sức nhưng không ai dám
cười vì sợ. . . Chúng tôi không cam tâm làm người thua
cuộc nên bằng mọi cách phải thoát về bên kia: chị Bích
còn có anh Thi, anh Đạt còn có vợ và hai con mà anh nghỉ
rằng chị đã về tới Nha Trang rồi, ông bà An có luật
ở Sài Gòn, Hằng cũng hy vọng anh Sơn ở đâu đó trong
thành phố Nha Trang hay Sài gòn, RIÊNG TÔI, TÔI CŨNG CÒN CÓ
RẤT NHIỀU VÀ RẤT NHIỀU, không thể nào về lại Plei ku.
Chúng
tôi tụt lại phía sau khá xa, khi không còn nhìn thấy
một ai anh Đạt hô nhỏ: “nào chạy nhớ thật êm,” Khải
nói nhỏ vào tai tôi: “- giống hệt những lần anh đi hành
quân ghê,” lúc này chúng tôi không sợ chết vì bom rơi
đạn lạc nữa, mà chúng tôi sợ bị vc bắt lại, nổi
sợ này cũng lớn như nổi sợ kia; nó cũng đe dọa chúng
tôi từng giờ từng phút, mọi lúc mọi nơi; nhưng có thể
tránh được, còn súng đạn thì... thua luôn. Chúng tôi mỏi
mệt, thân xác rã rời, tinh thần căng thẳng đến tột
cùng, anh Đạt kiếm chổ cho mọi người nghỉ chân, tôi
nhìn chung quanh; nơi đây sao mà đẹp quá, chúng tôi đang
ngồi ở trên cao của ven rừng thưa, bên dưới là dòng
sông nươc trong veo, có bờ cát vàng trải dài theo con sông,
anh Đạt mở bản đồ ra xem, nơi đây là khúc quanh của
sông Adun, nếu đi men theo con sông này sẽ về Pleiku rất
gần Hàm Rồng; điều này là không thể được, vc đang
tảo thanh khắp nơi “lượm” từng người dân để đưa
“về chốn cũ ”, họ không muốn chiến thắng một thành
phố bỏ ngỏ, không dân vì như thế chiến thắng của họ
không giá trị, nói cho vui vậy thôi; chứ họ vẫn là người
thắng, và bên đây vẫn là người thua cuộc dù rằng (chưa
đánh đã thua)... Anh Đạt và mấy người con trai bàn bạc
với nhau một lúc rồi quyết định đi xuyên rừng men theo
đèo MăngYang tới sông ÊPA, từ đó sẽ đi cặp theo con
sông này về đến Tuy Hòa, sở dĩ phải đi theo ven sông
là để tránh cái khát, khát nước cũng là một sự đe
dọa rất lớn cho sự sống, người ta rất dễ chết vì
khát, không chết vì bom đạn mà chết vì khát thì coi như
xui hết biết... không còn gì ngớ ngẩn hơn.
Mặc
dù đang đói và mệt nhưng chúng tôi: Thủy, Hằng,
Thấm, Ngân, Hoa, Kiều... vẩn không thể nào dửng dưng
được trước vẽ đẹp của thiên nhiên rừng núi nơi đây,
tâm hồn chúng tôi rung động sâu xa, riêng tôi; tôi muốn
toàn thân mình được tan ra và hòa vào trong nước, trộn
lẫn trong cát rồi trôi đi mãi; trôi mãi…Nhìn làn nước
trong xanh, hiền hòa bên dưới tôi thèm đươc nhảy xuống
ngâm mình trong đó. Tôi rủ Hằng và mấy đứa con gái xuống
tắm, ông bà An và chị Bích ngăn đám con gái chúng tôi
lại, không cho xuống nhưng chúng tôi cứ nhào xuống, áo
quần vẫn mặc trên người, nước mát lạnh ôm lấy và
vuốt ve thân thể chúng tôi, nước mơn trớn từng đường
lông tơ kẽ tóc trên người chúng tôi, nước vổ về xoa
dịu nổi đau trong tâm hồn và cả thể xác của chúng tôi
nữa, thật tuyệt vời không gì sánh được. chúng tôi cùng
nhau vui đùa trong nước, tạm quên đi bao nhiêu chuyện đau
lòng;. Ông bà An, chị Bích và những người con trai không
cưỡng lại nổi sự hấp dẫn của làn nước trong xanh,
cũng lội xuống tắm rửa, kì cọ cho đất đai và bụi
đường theo nước trôi đi. “đã quá; ”…ai đó kêu lên.
Hằng kéo tôi lên bờ trước, hai đứa che cho nhau thay áo
quần rồi đem đồ ướt trải trên lùm cây để gió và
nắng chiều hong khô rồi hai đứa ngồi bên nhau; Hằng
cất tiếng hát: “Này người yêu; người yêu tôi ơi, bên
kia sông là ánh mặt trời, này người yêu; người yêu tôi
hỡi; bên kia đồi cỏ non xanh mướt...” Hằng gợi nhớ
một điều mà mấy hôm nay chúng tôi đã quên; đó là âm
nhạc, là những bài hát mà chúng tôi yêu thích…Mấy chị
em của chị Bích người nào hát cũng hay, mỗi người một
giọng, mỗi giọng một vẻ; chị Bích thích nhạc tiền
chiến; mỗi khi chị ca bài Tà áo xanh, hay bài Em đến thăm
anh một chiều mưa, giọng của chị mượt mà êm ái, nũng
nịu, làm cho tôi khi nghe; lòng vô cùng bồi hồi xao xuyến.
Hằng thích nhạc Trịnh công Sơn giọng ca của Hằng cũng
hay nhưng không ấm áp và say đắm như giọng của chị Bích,
Khải và Luật thì giống nhau: Thích nhạc ngoại quốc, mỗi
lần tôi đến nhà chị Bích chơi vào buổi tối hay những
ngày không có giờ dạy [ thời gian sau này tôi mới quen
biết Khải khi Khải bị thương; được cho về nhà dưỡng
thương ] Khải thường hay hát Let it be của The Beatle, hai
anh em đều mê LOBO nên rất chịu khó luyện giọng và hát
cũng nhẹ “lưng trời;” từa tựa như LOBO, còn tôi; tôi
thích nhạc của Dương Thiệu Tước, nhưng tôi hát rất
dở nên không hát cho ai nghe bao giờ…, mới chỉ 4 ngày
thôi mà chừng như từ lâu lắm, tự nhiên lòng tôi quặn
thắt, đau như có ai đang bóp mạnh vào tim mình. Khi tất
cả đã lên bờ đầy đủ chúng tôi bắt đầu bị cái
đói hành hạ, mỗi người chỉ được một nắm cơm nhỏ
như nắm tay của Ty Anh, chẳng thấm tháp gì cả, nhưng
đó là những miếng cơm cuối cùng, ngày mai sẽ ra sao? khi
không còn gì ăn để mà sống, mà đi tìm tự do, một nổi
sợ to lớn dè nặng lên tâm hồn mỗi người chúng tôi.
Bé Ly Ly khóc vì chị Bích đã khô sửa, chị Bích cũng khóc;
tôi xót xa nhìn chị; Ty Anh, Ty Em, My Cò thấy mẹ khóc nên
cũng khóc theo, chỉ mới mấy phút trước đây thôi mọi
người vui đùa trong dòng nước mát; mà bây giờ lại cùng
nhau khóc...
Có
tiếng động sột soạt ở lùm cây bên cạnh, chúng
tôi giật mình hoãng sợ quay nhìn, từ trong lùm cây một
thanh niên bước ra, anh ta dong dõng cao, da ngăm đen, miệng
rộng, mủi thô; anh ta ôm trong tay một túi xách lớn, nhìn
chúng tôi nở nụ cười làm quen, chúng tôi cũng cười lại
thay cho lời chào; giữa một nơi như thế này, trong hoàn
cảnh như vậy mà gặp một người thuộc “phe ta “là
điều đáng mừng. Khải hỏi:
- Anh đi một
mình à?
Anh ta trả lời – giọng nam pha bắc kỳ: - Dạ đi
một mình, tôi tên Hớn, ba má tôi ở Sài Gòn, có xưỡng
gổ, tôi đang học Luật thì bị kêu đi lính, ba tôi xin
cho tôi qua ban Quân cụ, được gần nhà nhưng tôi không
chịu, tánh tôi thích phiêu lưu mạo hiểm, sẳn chú tôi
có trại cưa ở Ban mê thuột; tôi lấy cớ muốn gần với
chú, nên xin thuyên chuyển lên cao nguyên, đơn vị đóng
quân ở Dacsong, nơi đó có con sông DacPko đẹp mê hồn,
chiều chiều các nàng sơn nữ ra suối tắm sexy 100/100 tuyệt
vời không tã nổi, trước mặt đốn trú quân của đơn
vị tôi là ngọn núi cao 1231m; gần biên giới Lào, đi xa
nhớ nhà nhưng cũng thú vị lắm, tụi tôi từ Kontum về
tới sông Êpa bị vc pháo kích chận đoàn xe lại; trời
ơi; tụi nó nhắm vào đoàn xe GMC chở dân di tãn mà bắn,
xe với người tan xác nhiều vô kể, cả giòng sông Êpa
đầy máu và xác người... mấy bạn tôi không biết ai còn
ai mất. (làm như lâu lắm rồi Hớn không
được nói nên anh chàng nói một thôi một hồi) Tôi
chạy thục mạng, mấy ngày nay trốn chui trốn nhủi ở
trong rừng cứ nhắm bụi cây mà lủi vào, mấy lần sém
bị vc bắt đưa về lại Pleiku.
Hớn
lôi ra trong xách mấy hộp bơ và vài thứ linh tinh đưa
cho Khải, Đạt nhỏ kêu lên: “ái chà, quên mất, Đạt
có đem theo cái Radio philip đây, tối tôi nghe đài VOA,
BBC, nghe nhạc đở buồn, với lại có cả cây kèn Acmonica
nữa “chúng tôi mừng rở, Hằng hỏi: còn pin không? –
pin mới thay trước khi đi, còn 4 cục sơ cua nữa lận”.
Khải nói:
- 3 ngày nay không nghe được gì ngoài tiếng súng đạn, tưởng
đâu mình đã thành người tiền sử rồi chứ.
Bây
giờ là 2 giờ chiều, anh Đạt kêu chúng tôi
chuẩn bị lên đường, nhưng trước khi đi phải để anh
và mấy người con trai chia nhau đi thám thính một vòng,
anh nhìn về 2 ngã; Khải và Đạt nhỏ đi về phía tay phải
con đường mòn, anh Đạt và Minh đi về phía tay trái, Hưng,
Phi ở lại trông chừng mọi người, ông An nói: 4 người
chỉ được đi trong vòng 15 phút thôi, tôi tò mò muốn đi
theo nhưng anh Đạt mắng: “chỉ vướng chân;” chúng tôi
chờ đợi trong âu lo và hồi hộp cảm thấy sao mà thời
gian dài như vô tận, cho đến khi 4 người cùng trở về.
chúng tôi mừng quá. Anh Đạt cầm trên tay một cái nón
sắt còn mới, tay kia cầm 1 bịch gạo chừng 3 kg anh kể
cho cha mẹ anh và mọi người cùng nghe:
- Chỉ đi chừng 500m là ra đến đường QL, trên đường là
cả một rừng đồ đạt vứt ngổn ngang, nhiều vô số
kể, xác người nằm la liệt, nát bấy, hơi có mùi thum
thủm, xe cộ thì tanh bành, cái nón sắt này con lượm ở
gần đây; cạnh đôi giày lính, còn gạo đổ tung tóe bên
đường hốt lại được có chừng này, đây là Phú Bổn,
nó nằm giữa Qui Nhơn và Tuy Hòa đó.
Ngân
hỏi anh Đạt sao không lấy đôi giày về mang cho êm
chân” - Ngân nói vớ vẫn, người ta còn phải bỏ mà mình
lại đi lượm, lở gặp vc nó bắt ngay ” Khải vừa tháo
bỏ lớp độn bên trong cái nón sắt vừa nói: - Với cái
nón sắt này mình có được 1 cái nồi, còn nắp nồi thì
bẻ lá chuối mọc bên đường đậy lại
Khải lại kể:
- Trời ơi, xe hơi, tủ lạnh, tivi, máy may đầy 2 bên đường
có ông đại úy ngồi chết trên tay lái của chiếc xe Jeep;
tay ông ta đeo cái đồng hồ đẹp lắm Khải tính lấy,
nhưng thấy 2 con mắt ông mở trừng trừng, máu trên người
đông cứng, sợ quá, không dám…
Có
thêm Hớn hình như mọi người an tâm hơn, bé Ly Ly đói
bụng đòi bú, bé ngậm vú mẹ nhay nhay nhưng sữa của chị
Bích không còn, nó giận dổi khóc làm chị Bích cũng khóc,
Đạt nhỏ và Hớn có ít nhiều kinh nghiệm và hiểu biết
về cuộc sống của người thượng, tôi cũng thế; Người
thượng họ dựng làng gần sông, suối, họ chọn một nơi
nào đó trong rừng không xa buôn làng là mấy rồi chặt
cây đốt cháy thành tro, qua mùa mưa tro trở thành phân bón
tự nhiên, họ dọn sạch sẽ và trồng các giống bắp,
lúa nếp, lúa gạo, khoai lang, khoai mì... lúc đầu nương
rẫy của họ gần làng nhưng sau mỗi mùa thu gặt; họ bỏ
nơi đó, đi tìm nơi khác, lại chặt cây đốt rừng làm
rẫy. rừng càng ngày càng bị chặt phá một cách vô tội
vạ, rẫy của họ càng lúc càng xa… nhưng họ vẫn bám
gần sông suối. chung quanh làng họ trồng thêm đu đủ,
bí ngô, mía, chuối và các loại rau, đậu, họ sống rất
gần gủi với thiên nhiên; tâm hồn họ đơn sơ mộc mạc
ít suy nghĩ. Nhờ có số gạo lượm được, Anh Đạt biểu
Ngân nấu cháo, lấy nước cháo đổ vô bình sữa cho Ly
Ly bú; còn người lớn thì “hưởng xái;” Hớn đưa cho
Ngân một hộp diêm quẹt Quân Tiếp Vụ - chúng tôi đươc
ngồi nghĩ thêm một chút nữa trong thời gian chờ cháo chín;
- lúc thu dọn đồ để đi di tãn, chị Bích mang theo 2 bình
sữa và mấy hộp sữa nhưng lúc nhảy xướng xe mà
chạy chị không kịp lấy theo được hộp nào, cũng
may mà có 2 bình sữa - Chúng tôi ngồi chia thành từng nhóm
nhỏ với nhau; mấy đứa con gái như: Ngân, Thấm, Hoa, Kiều,
ngồi bên bếp lửa canh nồi cháo, Ty: em trai út và các con
chị Bích, cả bé Lan nữa đang nghịch lá khô, số còn lại
thì cùng nhau bàn bạc chương trình và lộ trình cho những
ngày tiếp theo; theo ý kiến và sự hiểu biết của từng
người đóng góp lại, chúng tôi quyết định: phải men
theo sông mà đi, cố gắng vô sâu mấy buôn làng của Thượng
kiếm bắp, bí ngô, đu đủ, mía… là có đồ ăn; không
sợ đói, chỉ cần chặt vài cây mía róc sạch vỏ, còn
mình thì súc miệng cho sạch rồi dùng hai hàm răng làm “máy
ép nước mía; “lấy bình sửa hứng cho bé Ly bú, đu đủ
chín nhừ thì tán nhuyển ra cho Ly Ly ăn, hườm hườm để
người lớn, bắp thì chỉ cần tách lấy hột, cắn bể
ra, buổi tối ngâm trong nước cho mềm đến sáng nấu chín
mang theo ăn dọc đường... cần nhất là kiếm cho được
nhiều bắp; Hằng cười nói “: tụi mình giống dân du
mục quá à, sống kiếp lang thang không nhà;” “- ừ há;
giống dân du mục đi du lịch, ở khách sạn thiên nhiên,
toilett thiên nhiên...” bà An la hai đứa tôi “chết trước
mắt còn đùa“ chị Bích thì bênh:- “không đùa dể chết
sớm hơn đó mợ ạ ”.Nồi cháo đã nhừ, mùi thơm của
cháo lang tỏa phất phơ trước mũi tôi, gợi cho tôi nhớ
đến một buổi tối hôm nào đã xa xôi lắm; khi chúng tôi
còn yêu nhau, anh ấy đưa tôi đi ăn cháo tôm – thật tình
với tôi lúc đó; chỉ cần ngồi gần anh là tôi đã cảm
thấy no rồi vì vui sướng và hạnh phúc – khi người ta
bưng tô cháo ra, với làn hơi nóng, thơm của gạo dẻo được
nấu cùng lá dứa, với mùi tiêu cay nồng và mùi hành
ngò dìu dịu, trải trên mặt là một lớp mở hành phi
màu vàng óng thơm ngào ngạt, trong tô là mấy con tôm to
bằng ngón tay cái đã được lột vỏ, có màu đỏ hồng
nằm cong tròn, tất cả đều hòa chung, quyện lại cùng
với mùi gia vị bày ra trước mặt tôi; có người
yêu tôi ngồi bên cạnh, chúng tôi vừa thổi; vừa húp;
vừa nhai; vừa nuốt một cách ngon lành; lòng thì no nê
và hạnh phúc thật ngất ngây, tôi gọi đó là tô cháo
của tình yêu... Chị Bích múc nước cháo đổ vào bình
sữa cho bé Ly bú, Anh Đạt chưa cho chúng tôi ăn cháo bây
giờ mà phải đi tiếp, chừng nào gần tối kiếm được
chổ nghỉ; ngủ qua đêm lúc đó mới được ăn. Cần phải
tận dụng thời gian và cố gắng rút ngắn quãng đường
dài. Sở dĩ phải nấu cháo sớm vì ban đêm không được
đốt lửa, sợ vc thấy, rất là nguy hiểm.
Cả
đòan người đi thêm chừng 2 km nữa thì chịu hết nổi,
không thể nào đi tiếp đươc, anh Đạt cho ngừng lại để
nghỉ, nơi đây là một khu rừng tre, lá tre vàng rụng trải
lên trên mặt đất một lớp dày êm ái, tre mọc từng cụm
rải rác . Cảnh trời chiều nơi đây đang dần nhuộm tối,
đẹp một cách lạ lùng, nó huyền ảo, mênh mông đầy
quyến rũ, màu trắng của mây chiều chuyển sang màu xám
bạc, sắc trời pha tím, sương chiều trộn lẩn màu hương
khói, bên kia sông là bãi cát vàng tươi đang ngã sang màu
nâu sẩm chạy dài ngược lên khu rừng thưa, vẽ tỉnh lặng
êm êm của hoàng hôn gợi lên trong tôi nhiều nổi nhờ,
lòng cảm thấy man mác, bâng khuâng và chơi vơi buồn. Bà
An lấy cái ca múc cho mỗi người một ca cháo, không biết
Khải kiếm đâu ra và từ lúc nào một gói muối nhỏ, đưa
cho Ngân bỏ vô nồi cháo trắng, nhờ thế nó có vị mặn
dể nuốt, cái ấm nước; mà trong lúc cuống cuồng nhảy
ra khỏi xe bà An quơ vội theo cùng cái ca nhà binh là những
đồ dùng vô cùng quí giá cho cả đoàn người vào lúc này,
trong ấm chỉ còn một ít nước mỗi người được một
ngụm, cũng không sao vì bên dưới là dòng sông, tha hồ
uống.. . Chúng tôi ngồi bên này sông, đăm đăm nhìn sang
bên kia sông, tưởng tượng bên kia là miền tự do với
lá cờ vàng 3 sọc đỏ, Hằng vẫn ưa hát mỗi lần ngồi
nghĩ chân, câu hát trở thành niềm mơ tưỡng: “này người
yêu, người yêu tôi ơi... ”, Ông An, anh Đạt, Đạt nhỏ,
Hớn, Khải... đang bàn nhau về chương trình ngày mai, anh
không cho tôi và Hằng ngồi mơ mộng vớ vẫn nữa phải
trở về với thực tế; mà... trời ơi, thực tế này đáng
sợ biết bao nhiêu, Khải đưa ra ý kiến:
- Mình vẫn đang ở trong vùng cao nguyên; nơi đây có nhiều
rừng thưa; sông, suối, rải rác có những buôn làng của
người thượng, mình phải đi theo đường rừng men theo
dòng sông vì có 3 điều thuận lợi:
1 / khó chạm trán với VC, vì họ đã chiếm được cao nguyên,
họ sẽ tràn về đồng bằng thành phố.
2 / không sợ bị thiếu nước, vì thiếu nước sẽ chết
khát.
3 / Dể kiếm được thức ăn trong các buôn làng.
Tôi than: “Trời
ơi đi tìm về miền tự do mà sao nghe cực quá hà, đi kiểu
này biết đến bao giờ mới tới nơi?” không ai trả lời,
anh Đạt nói ý kiến của mình:
Theo tôi biết mình đang ở phía Tây của sông Adun, đoàn
xe mình bị pháo kích ngay tại Phú Bổn, phải vượt
qua bên kia sông, cứ đi trong rừng cặp theo đèo Măngyang
về lại sông Êpa, từ đó mình đi dọc theo sông Êpa về
đến Krong-Pa, từ Krong-Pa về tới Tuy Hòa, từ Tuy Hòa mình
về được Nha Trang… bằng cách này mình phải thoát
ra khỏi Phú Bổn để tới Tuy Hòa trước đã.
- Nhưng mà ở đoạn sông Êpa VC đã pháo kích chận đầu
đoàn xe làm người ta chết quá trời, bây giờ quay trở
lại đoạn sông đó, nghĩ lại buổi tối ở đó dể
gặp ma… sợ lắm.
Anh Đạt chỉ cho chúng tôi xem từng chi tiết trong bản đồ,
vừa chỉ vừa giải thích, Khải dọa:
-
Nhìn trong bản đồ thấy gần và đơn giản, nhưng đi rồi
mới biết; Khải đã từng đi hành quân, gian nan khổ cực
lắm đó. Qúi tiểu thư đừng than thở nhé.
Chị Bích bực bội la Khải: - Khải im đi; dọa các em làm
gì cho chúng nó nản lòng.
Mọi
người đồng ý với ý kiến của anh Đạt và Khải,
ai nấy đều đã mệt nên tìm một chổ để nằm ngủ qua
đêm. Trời tối hẳn, bây giờ thì không còn nhìn thấy
được dòng sông bên dưới, chỉ nghe tiếng nước róc rách
của con sông chảy qua gềnh đá, tiếng gió vi vu nhè nhẹ
và tiếng xào xạc của những cành lá ở trên cây, đêm
nay chúng tôi lại được nghe tiếng dế nỉ non hòa chung
với tiếng côn trùng rã rích, tấc cả hợp lại thành một
giàn nhạc hòa tấu của thiên nhiên giữa núi rừng xa lạ.
Đang mơ màng đi vào giấc ngủ, bổng nhiên chúng tôi nghe
những tiếng gầm rú, đó là tiếng động cơ của một
loại xe hạng nặng, ánh sáng của những chiếc đèn pha
sáng lóa xuyên qua bóng tối của đêm đen sâu hun hút, nhiều
xe và nhiều xe ghê lắm, nó cứ rầm rập và rầm rập làm
rung rinh chổ chúng tôi nằm. xe gì đây? là GMC, hay xe của
vc? , đoàn xe chạy qua, tiếng xe nghe vừa quyến rủ mà cũng
vừa đe dọa. Anh Đạt lo lắng và nôn nóng, anh nằm sát
đất bò ra gần đường xe chạy, lâu lắm anh mới trở
lại, tôi nghe được tiếng anh thở dài, anh nói nhỏ: “xe
vc, bên hông có cờ đỏ sao vàng, đó là xe motova; lính vc
ngồi đầy trên xe ;” sự sợ hải dù có đè nặng lên
tim tôi đi nửa, nhưng mấy hôm nay sợ nhiều quá rồi, nó
đã ở tận cùng của nổi sợ, bây giờ không còn chổ
nào trống để mà chất chứa thêm. Đêm nay sao dài quá
dài, buồn quá, những đứa bé và mấy cô em gái vô tư
đang say ngủ, còn tôi, Hằng, Khải, Đạt… cả Minh nữa,
nằm thao thức, Đạt nhỏ mở radio tìm đài VOA để nghe
tin tức và vài lời bình luận (ai là người đã viết ra
những lời bình luận; có ở vào hoàn cảnh và tâm tư của
chúng tôi để mà viết cho đúng không đây? hay chỉ là
những người ngồi trong phòng có máy lạnh, bên ly cà phê
sữa nóng, vô tư viết ra những lời vô thưỡng vô phạt,
và ai là người hô hào với những câu nói đao to búa lớn
rồi ung dung ngã người lắt lư trên ghế bành ngậm điếu
xì gà, mắt lim dim nhìn khói thuốc bay bay, tai lắng nghe
Thanh Tuyền, Giao Linh nũng nịu hát; lòng sãng khoái lâng
lâng thấy đời rất đáng yêu, đáng hưỡng thụ, không
thèm biết đến những ai đang chết, những cái chết tức
khắc và những cái chết từ từ)… nghĩ đến đây lòng
tôi chua xót quá. Ông Thiệu đang hùng hồn tuyên bố trong
đài phát thanh: “Nhất định chúng ta sẽ thắng, đây là
chiến lược và chiến thuật của Quân Đội VNCH, tôi sẽ
sát cánh cùng với đồng bào đến hơi thở cuối cùng”…
giữa khoảng rừng thanh vắng đêm nay, lời hứa hẹn của
ông mang lại cho chúng tôi nhiều hy vọng và đầy cảm động,
không hiểu tại sao chúng tôi lại quá ngây thơ và dể dàng
để tin vào những lời tuyên bố như thế. Hết phần tin
tức và bình luận, đến phần văn nghệ, Sĩ Phú đang hát
bài “Em Tôi” giọng ông trầm ấm làm cho lòng tôi nao
nao, rồi giọng ca Thái Thanh lảnh lót với: “Ngày xưa Hoàng
thị” chao ơi; sao mà tôi muốn khóc quá đi thôi, Hằng
nắm tay tôi bóp nhẹ, nổi buồn của tôi được chia đôi
và Hằng cũng thế, chúng tôi đang nhớ những ngày tháng
đã xa, nhớ một vùng trời đầy ắp những kỷ niệm ngọt
ngào, Hằng nhớ anh Sơn còn tôi cũng đang nhớ một người. - ♡ /.
