Việt Văn Mới
Việt Văn Mới





GẦN NHÀ XA NGÕ

             


N ó quay nhìn lại. Không thấy cây cầu đâu! Chả lẽ nằm mơ? Rõ ràng nó vừa đi trên cây cầu bê tông dài bắc qua sông. Cây cẩu cao ngang ngọn gió, chạm vào những đám mây. Nắng chiều bỏng rát phía sau lưng. Phố phường đã đẩy lùi cây cầu đâu mất, khiến nó bây giờ lạc giữa một thế giới hình khối ngất trời, nghìn nghịt người xe. Nóng hầm hập. Cột điện nối hàng chạy về những đâu mà lắm thế? Ngã tư bật đèn đỏ. Thấy xe thấy người dừng lại, nó cũng bắt chước đứng lại. Dòng người đi, nó cũng đi. Qua nhiều dãy nhà cao, nhiều phố lắm. Nhà Bảo tàng. Ngã tư. Ngã chéo. Hãy còn phố. Hãy còn ngã ba ngã tư. Đằng xa kia, hai cái ống khói nhà máy sơn khúc trắng khúc đỏ như hai con rắn cạp nong nghển

Gặp những chỗ sang đường, nó như con rùa bò lầm lũi, chỉ sợ xe đâm. Không biết làng ở đâu nữa. Mới sáng, nó còn ngồi cùng đứa em gái với mấy thằng bạn chẻ nứa làm đèn ông sao, chờ đến hôm rằm trung thu sẽ đem cho cô giáo chấm điểm. Bố nó còn bảo lâu lắm mới thấy trường Tiểu học phát động trẻ em tự làm đèn đón Trung thu! Đúng thế! Từ lúc đi học lớp Một đến giờ, lớp Năm, nó toàn thấy học sinh trường nó mua đèn ông sao, đèn trống khẩu, đèn con cá… mang đến lớp thi “Vui hội Đêm Rằm”. Học sinh thời nay chỉ giỏi chơi game, dán mắt vào điện thoại di động, chả biết làm đèn như thời bố mẹ nó, như trẻ con xóm nó.

Nó thường ra cánh đồng, nhưng chưa khi nào được đi xa khỏi nhà lấy một hai ngày. Hình như có. Lúc bé học mẫu giáo, anh em nó được bố mẹ chở sang ngoại. Có bận gặp mưa to phải ở lại nhà ngoại đến hôm sau. Nói là sang ngoại, chứ nó có biết gì đâu khi chiếc xe máy chở cả bốn người lao vun vút trên mặt đường cũ kỹ cùng nhà cửa hai bên cứ loang loáng lướt qua… Làng nó nhỏ và còn nghèo lắm. Nhà xây gạch vôi xỉ, lợp ngói, lợp tranh còn rải ran, mốc thếch. Đi qua làng người ta, nó thấy toàn mùi xào nấu thơm nhức mũi. Làng nó từ hạ sang thu chỉ có mùi hoa cau trong những mảnh vườn, mùi hoa lộc vừng cạnh ngôi miếu đầu xóm thả xuống đường.

Nó nhớ buổi sáng, bỏ đám trẻ với những chiếc đèn dán dở, ra ngõ, nó bị hút theo dòng người, xe máy sang Thị xã xem “mít tinh kỷ niệm…” Ra khỏi xóm, nó đi qua một tòa nhà to, tường màu trắng, thấy để tấm biển Ủy ban Nhân dân xã… Đấy là xã nó. Tòa nhà quay ra cánh đồng có dòng sông trước mặt, nhưng dòng sông đầy những mảng bèo tai. Mấy người trên chiếc thuyền nan vừa lấy tay rẽ bèo dạt ra hai bên vừa bởi mái chèo mới đi được. Xung quanh khu ấy cũng nhiều nhà cao, tường vàng tường xanh mới tinh, cánh ngõ nào cũng đóng im lìm. Người ta bảo đấy là “xóm Kiều”. Xóm Kiều mới có nhiều người giàu. Xóm nó với xóm Kiều giáp ranh nhau một lối ngõ sâu chạy chia đôi khu dân cư. Nhưng xóm Kiều không nhộn nhạo như khu xóm nó, có bọn trẻ hò reo chơi trên sân nhà “ông Viễn tri điền”…

Nó bị lạc từ lúc qua xóm Kiều, qua cây cầu. Tại xóm Kiều đẹp. Tại cây cầu đẹp, lần đầu tiên nó thấy. Hốt hoảng. Mếu máo. Nó lấy lại bình tĩnh. Tha thẩn đi dọc các dãy phố. Có dãy đi lại tới mấy lần, vẫn những ngôi nhà tầng tầng, gác gác, cửa kính lấp lóa, hoa tím buông lưng chừng tường. Những con chó tây thè cái lưỡi dài ngoẵng, đỏ chót, hau háu nhìn nó. Lại nhớ tới ngôi nhà “ông Tám mắt sâu” ở đầu xóm Kiều, cách nhà nó mấy cái nóc. Ông Tám có đôi mắt sâu hoắm, bộ lông mày đen rậm như hai mũi mác, bộ râu liếm hết cả hai vành má y như cái vành miệng gầu dai gắn vào, nên người ta hay gọi là “ông Tám mắt sâu râu quai nón”... Nhà “ông Tám mắt sâu” có bác Cả với chú Hàn làm gì to lắm trên Thị xã và ngoài tỉnh. Nó chỉ biết chú Hàn. Thỉnh thoảng chú đánh chiếc xe con đen bóng về đậu ngoài đường trước cổng ngõ. Chú đi với các cô gái, không biết vợ hay em hay bạn mà lâu lâu lại thấy khác. Cô nào cũng trẻ, váy ngắn, áo lửng, hở hết cả ngực cả lưng. Tóc thơm nưng nức. Gái mười tám trong làng, ăn vét! Quà cáp, hộp nọ thùng kia bê từ xe vào nhà sực đủ thứ mùi bánh kẹo, hoa quả. Nhiều quà lắm. Nhưng chả khi nào trẻ con được sang nhà ấy chơi. Vừa thập thò đầu ngõ hai con chó tây đã xồ ra muốn nuốt chửng. Đứa nào cũng xanh le mắt thỏ…

Khác với nhà “ông Tám mắt sâu”, cách nhà nó mấy bức tường ghẻ có nhà “ông Viễn tri điền” sân rộng như sân đình, lát gạch phẳng phiu đầy bóng cây khế, cây ổi râm mát. Ông bà Viễn hiền lành, hay cười, rất thích trẻ con. Trẻ chơi hò hét ầm ĩ, đủ trò bịt mắt bắt dê, chơi ô ăn quan, chồng nụ chồng hoa, cả đá bóng nhựa… Ông bà cũng chẳng đe nẹt gì. Bà hay đem những chùm nhãn, chùm vải thắp hương xong chia cho trẻ, rồi nấu cả nồi nước vối pha loãng đổ vào chiếc xô nhựa cho chúng uống. Đùa vui chán, bọn trẻ lại ngồi túm tụm đọc sách tranh truyện trên hiên nhà. Bà Viễn bảo: Ngày xưa bà cũng như các cháu. Mai ngày có lẽ các trò chơi này sẽ mất. Bây giờ các cháu chơi ngày nào biết ngày ấy… Mồ hôi lóng lánh mặt mũi. Chúng lại múc nước tu ừng ực. Nước vối dàn miệng xuống ngực, mát lạnh, đầy sảng khóai.

***

Đi nữa, nó lại thấy có khu phố nhiều những con chó bé tẻo teo, thấp lùn, màu trắng, màu nâu. Người qua cửa, đang nằm khoanh trên đệm hoa, chúng liền vột dậy dạng chân, nghển đầu, giương hai viên mắt tròn lồi hẳn ra ngoài sủa oắc oắc. Có con bị xích vẫn vờn hai chân về phía nó, y bọn trẻ xóm Thượng hay bắt nạt bọn học trò lớp nó đi học qua. Nó sợ sệt lùi lại, rón rén lân ra ngoài vỉa hè, nghĩ bụng: Gặp lão phó Đá làng tao, chỉ một nhát dùi đục là xong béng, không đủ bày lên một cái đĩa… Lúng tùng thế nào nó đụng vào một cô gái đang cầm trên tay một cốc nước. Cốc nước văng xuống đất, tung tóe. Đồ khốn nạn! Toi mất ly nước cam ba sọi! Đền đi, thằng oắt con! Nó cúi xuống: Dạ! Em không… không có gì ạ! Em không có tiền… Chị tha cho em… Cút ngay! Bà bán hàng nước nhìn nó: Thôi, đã trót, đi đi cháu! Từ rày phải mở to mắt ra mà nhìn nhá!

Qua một khu chợ ngàn ngạt những người với hàng hóa la liệt đủ thứ, hoa cả mắt. Ngợp quá! Khỏi khu chợ, nó vô tình nắm vạt váy một người đàn bà trong đám đông, lọt vào một cửa hàng. Cửa hàng toàn các ông bà các cô béo tốt và trẻ đẹp, mặt sáng ngời ngời. Người mặc váy, người mặc quần đùi, áo ba lỗ cũng trễ hết cả ngực, núng nính hơn cả hồi mẹ nó cữ em bé. Đùi vế họ để lồ lộ, trắng nhễ nhại, hơ hớ lưng nách. Hai ông bảo vệ mặc áo xanh, đội mũ bằng, cầm cây gậy ngắn sơn đen, đứng nghiêm hai bên nhìn nó, chả bảo nó làm sao. Cửa hàng sáng choang những chiếc tủ kính, ánh điện soi rõ những khay vàng lấp láy, những sợi dây chuyền xếp hình trái tim, những chiếc nhẫn to nhỏ đủ kiểu dáng. Nó biết đây là tiệm vàng. Ui cha! Hiệu vàng to khiếp! Sao mà lắm vàng lắm nhẫn thế? Mẹ nó cả đời vất vả cấy hái, chạy chợ nuôi anh em nó với cả nhà; nó chưa lần nào thấy ngón tay mẹ đeo chiếc nhẫn. Ở đây toàn người ăn diện, vàng đeo lấp lánh tay, lung linh cổ ngực. Ướm thử. Tháo ra. Đeo vào. Trả tiền. Gói ghém. Cái máy đếm tiền phẩy tiền xoành xoạch. Người ta lắm tiền thật, tiền mới toanh như bố nó thường bảo: cạo được râu! Làng nó, xóm nó chả thấy ai lắm tiền như ở đây. Chắc chỉ có nhà ông Tám mắt sâu? Ấy là nó đoán thế, vì nó nghe dân làng nói “ông Tám sâu mắt tiền đè chết người!” Chứ đã khi nào nó thấy ông Tám mắt sâu đếm tiền! Chỉ biết nhà to cửa rộng, nhiều quà cáp, nhiều quần áo đẹp, nuôi bầy chó tây là lắm tiền rồi!...

Đám khách hàng đun đấy dần nó vào trong. Nó đứng bên một cô bé mặc váy hồng, đội chiếc mũ vải trắng rộng vành. Cô bé cũng cỡ bằng tuổi nó. Cô cầm tay một người đàn ông đóng thùng bộ quần đen áo xanh lơ, cổ thắt buông một cái dải màu xanh to bản như của chú Hàn con ông Tám mắt sâu. Chắc là bố? Ông bố bảo cô con gái: Nào công chúa muốn sắm thứ gì làm quà tặng Trung thu? Nhẫn nhé! Con chả thích! Đi chơi game hơn! Cô bé đỏng đảnh. Bỗng dưng cô gạt nó: Đồ nhà quê lùi ra! Người đàn ông lừ mắt nhìn nó. Nó lẳng lặng bỏ ra một góc nhà đứng đó tò mò nhìn hai bố con...

-Sao hôm nay Elidabet lại khó tình thế? Ồ! Đôi hoa tai có hình quả xoài xinh chưa? Cả chiếc nhẫn khắc chữ N này nữa. Đúng tên con kia kìa. N là Ngọc mà!

Bà chủ hiệu vàng dáng thướt tha với gương mặt xinh đẹp trong mớ tóc bềnh bồng bấm tủ kính, lấy đôi hoa tai vàng và chiếc nhẫn vàng đặt trong hai chiếc hộp nhung đỏ ra, đưa cho người bố: Ướm nhẫn đã, rồi anh hẵng đeo đôi hoa tai này cho cháu! Người bố nâng tay cô bé xỏ vào ngón giữa, xuýt xoa: Ôi! Đẹp chưa! Vừa vặn nhé! Cô thấy cháu đeo chiếc nhẫn này thế nào? Đẹp lắm! Tự nhiên đẹp ngay ra. Thêm đôi hoa tai vào nữa là thành công chúa Ấn Độ! Bà chủ hiệu liếc người bố tỏ vẻ đồng tình. Người bố loay hoay, ngắm nghía, tháo ra xỏ vào. Cô bé vẫn ngúng nguẩy. Chiếc nhẫn bỗng rơi xuống nền gạch hoa bóng láng. Thôi! Khéo lại méo mất! Không sợ! Vàng bốn con chín chứ phải vàng vớ vẩn đâu…

Chiếc nhẫn lăn về phía nó đang đứng ở góc nhà, nằm ngay dưới ngón chân cái. Lúc ấy, người bố hốt hoảng cúi xuống, gạt cả cô bé và những người xung quanh ra: Khổ lắm. Õng ẹo mãi. Mỗi thế cũng đánh rơi! Lui ra để tìm! Vừa mới đây thôi đã biến đâu rồi? Tại bố ý! Game không game! Nhẫn với chả nhẫn!

Nó lấy ngón chân chặn chiếc nhẫn lại, như sợ chiếc nhẫn sẽ lăn đi đâu hoặc có ai nhặt mất. Vừa lúc nó cúi xuống. Chiếc nhẫn vàng đẹp quá! Mẹ nó chưa hề có bao giờ! Giá mẹ nó có được! Nhưng đây là của người ta, của cô bé kia! Một ý nghĩ vụt qua: Phải trả cho người ta! Cô giáo với bà Viễn vẫn dạy: Thấy của rơi, đem trả người đánh rơi… Nó nắm chiếc nhẫn trong tay như tận hưởng giây phút thiêng liêng, lạ lùng hiếm có. Chiếc nhẫn như truyền lực vào nó. Định bụng đem đên chỗ hai bố con đang vạch vòi đám váy, đám chân người. Đứng dậy. Tay vẫn nắm chặt. Rồi xòe ra. Chiếc nhẫn vàng lóe dưới ánh điện. Vừa lúc cô bé nhìn về phía nó. Cô lao tới như một mũi tên: Đây rồi bố ơi! Thằng nhà quê này... Nó ăn cắp! Người bố giật mình, cũng lao tới: Đâu? Đâu? Thằng này hả? Dám ăn cắp! Mọi người nhốn nháo, đổ mắt vào nó. Thấy rồi hả? Thằng này à? Nhếch nhác thế kia, đích thị kẻ cắp! Hai người bảo vệ áo xanh cũng cầm gậy ngắn rẽ người, xô vào: Thằng oắt con này? Thảo nào lúc nãy thấy nó cứ lấm lét bám váy một bà. Bà ấy đâu! Mày là con à?

-Dạ dạ… cháu… cháu… Mặt tái mét. Hai hàm răng đánh vào nhau cầm cập. Nó nói không ra hơi. Chiếc nhẫn đã bị cô bé giật khỏi tay.

-Chính xác mày lấy cắp! Còn dạ dạ cái gì?

-Dạ dạ… cháu không … ạ… nó… nó…

-Giải lên đồn công an thị xã! Hai người bảo vệ áo xanh quắc mắt!

Người bố xem lại chiếc nhẫn trong tay cô bé: Thấy rồi! Các chú tha cho nó! Từ rày, không được như thế nhá. Đồ nhà quê! Ăn trộm quen tay ngủ ngày quen mắt! Hư đốn đấy con ạ! Thôi! Về nhà đi! Người bố nhìn nó đầy vẻ giễu cợt và thương hại. Nó lập bập: Dạ… Không phải cháu… Còn cãi gì nữa? Hai ông bảo vệ cùng giơ gậy ngắn lên. Nó lủi thủi ra cửa. Phố đã lên đèn. Bụng bắt đầu cồn cào. Nó đi về phía ngã tư… Không biết làng nó nơi đâu? Không biết nhà nó chỗ nào?

Ai đi qua cũng xa lạ. Không một gương mặt quen. Nó đành lang thang trong đêm. Nghĩ tới những đứa trẻ lang thang trên ti vi, nó co rúm người lại. Cảm giác nhớ nhà rân rân khóe mắt. Mẹ ơi! Bố ơi! Vừa đi vừa mếu khẽ. Chỉ sợ bọn trẻ phố biết, sẽ trêu và đánh. Nó sẽ chết mất! Lại gặp một khỏang sân rộng. Ánh điện sáng rõ tấm biển đề dòng chữ đỏ: Nhà Bảo tàng. Hình như buổi trưa nó cũng qua đây? Thì ra nó lại lộn lại khu phố cũ. Nhìn quanh không thấy ai. Nó uể oải leo từng bậc lên chỗ hiên rộng. Cái ngủ cái đói vít nó gục xuống. Khuya lắm! Những người quét rác đi ngang qua. Một người kéo nó dậy: Này cháu bé! Quá nửa đêm rồi sao chưa về, lại ngủ ở đây? Muỗi tha ra nghĩa địa bây giờ!

-Dạ! Nhà cháu bên kia cầu… Nó thều thào: Cháu bị lạc từ trưa… Không nhớ nhà ở đâu… Cháu chỉ nhớ làng cháu gọi làng Lái!

-À! Làng Lái, làng Vị Khê! Giời ạ! Cách đây hai chục cây số. Mọi người vây quanh nó: Thôi! Đứng dậy, về nhà cô ngủ! Cô pha tạm bát mì cho mà ăn! Rõ khổ! Con cái nhà ai thế này mà không thấy nhắn tìm trẻ lạc? Sáng mai cô đón xe búyt Uông Bí Quảng Yên cho cháu về tận làng! Làng Lái hở?...

***

Nhà ông Tám mắt sâu hôm nay đông người. Xe đậu bóng loáng đoạn đường ngoài ngõ. Cửa xe mở ra đóng vào sầm sập. Những thùng những hộp khiêng lễ mễ qua cổng. Đám chó tây vờn lên sủa xuống như những diễn viên diễn xiếc. Các con cháu và khách từ thành phố về thăm.

Thì ra bà Tám bị cảm. Ba, bốn hôm nay không thấy bà ra chợ. Con cháu về thăm, động viên đưa bà lên Bệnh viện Thụy Điển Uông Bí: Xe đây, chúng con chở mẹ đi. Chỉ lên đấy mới khỏe! Sắp bẩy mươi, nhưng bà Tám còn béo khỏe, đẫy đà. Chắc do mấy hôm nóng quá. Ti vi nói Ấn Độ nóng chết hàng nghìn người. Mẹ bị cảm nắng thôi mà! Không phải đi bệnh viện cho diệu vợi. Chúng bay đứa nào cũng bận tít mù… Bận cũng phải cho mẹ đi, chúng con mới yên tâm! Bà Tám xua tay: Thôi thôi! Mẹ cảm ơn các con các cháu! Cảm mạo qua loa thôi mà. Thời buổi bây giờ cứ động một tí là các anh các chị lại thuốc với thang, lại tiêm với mổ... Kiếm mớ ngải cứu cho mẹ thì tốt quá!

-Đơn giản! Tưởng gì chứ lá ngải đâu chả sẵn. Cô Bình ra chợ mua cho mẹ. Tiền đây! Người anh Cả rút ra xấp tiền. Cô Bình gạt tay anh Cả: Khỏi! Em có đây! Nhưng trưa thế này, chợ tan lâu rồi!

Chú Hàn vỗ tay lên trán: Em nhớ… bên nhà bác Cấm có vườn lá ngải thì phải. Phải không mẹ? Bà Tám giở mình: Ừ! Tháng trước mẹ vẫn thấy nhà ấy bán!

-Bố có số điện nhà ấy không! Gần nhà xa ngõ. Đỡ phải sang!

-Có đây: 0333… Chắc vẫn máy bàn hồi xưa?

Chú Hàn rút di động nhoay nhoáy, quệt quệt…

Bên nhà nó. Bố mẹ ra đồng chưa về. Nó nhấc máy bàn nghe điện: Dạ dạ! Cháu đây! Chú Hàn mới về ạ? Bà bị cảm? Vậy mà cháu không biết! Lá ngải ạ? Vườn nhà cháu còn nhiều! Chú yên tâm. Cháu mang đến ngay!

Nó ra vườn hái nhanh một nắm lá ngải. Mẹ nó bảo lá ngải này đánh cảm rất tốt! Bung gà cho người ốm càng nhanh khỏe! Ngày xưa ông bà nội chuyên cho người xóm người làng chữa bệnh… Nó cho lá ngải vào rổ, rửa sạch rồi bê đi.

Đàn chó tây vột dậy sủa oang oang. Chú Hàn ra mở cổng, đe: Im ngay! Người quen! Đàn chó nín bặt, vẫy đuôi. Mắt chúng vẫn lấc láo nhìn theo nó vào tận thềm. Chú Hàn đón rổ lá ngải: Cảm ơn cháu! Tốt quá! Nhà đầy thuốc mà bà không dùng. Bà cứ bắt lấy thứ này đánh cảm với đồng chinh cổ...

-Vâng! Nhà quê dùng thứ này hơn chú ạ! Lá ngải tốt lắm! Tiện thể cháu hái luôn nắm nhọ nồi để chú đắp trán bà cho mát! Mẹ cháu bảo kháng sinh cả đấy! Ngày xưa ông bà nội cháu vẫn dùng đánh cảm… Nó định nói chuyện ngày xưa như mẹ nó. Một cô bé xuất hiện nơi cửa vào phòng bà Tám. Theo sau, một người đàn ông cũng đang bê một chiếc khay gỗ: Thuốc đầy thế này bà không dùng, lại đi đòi lá ngải với lá ngãi! Nó sững lại: Ô! Bác! Cháu chào bác…

-Ô! Thằng bé… Người đàn ông cũng bất ngờ.

Trước mắt nó, không ai khác! Chính là cô bé và người bố hôm rơi chiếc nhẫn ở tiệm vàng! Hôm nay ông mặc bộ vải bóng màu vàng, trùm dài quá gối, khiến nó chợt nhớ tới hình ảnh các đại gia trong phim Trung Quốc. Cô bé thì quần đùi, áo ba lỗ! Má bỗng đỏ lên. Cô vênh mặt nguýt một cái rõ dài rồi quay ngoắt, chạy vào phòng bên kia, đóng sầm cửa lại. Người bố hạ chiếc khay xuống bàn:

-Cảm ơn cháu! Hóa ra lại là cháu, ở ngay quê nhà mình! Bác là con trưởng của ông bà đây! Nhà bác trên phố. Bà ốm, bác với Ly về thăm… Ông bước tới cầm chặt tay nó: Tha lỗi! Gần nhà xa ngõ. Cùng làng mà không biết nhau! Thông cảm cho Ly, cho bác nhé! Hôm đó Ly đã không phải với cháu!

***

Chiều nay, nó ra ngõ gặp thằng Vinh, cháu “ông Viễn tri điền” mang xe đạp đến đón đi mua nến để cắm đèn ông sao. Hai đứa còn đang lúng túng lắp lại cái xích xe vừa tuột… Ngẩng lên, thấy một chiếc xe thùng vuông bịt kín mít chạy qua. Đằng sau có mấy chú công an đi xe máy hộ tống. Xem chừng quan trọng lắm. Nghe người làng bàn tán xôn xao: Ô! Hình như bác Cả con “ông Tám mắt sâu” bị bắt? Đúng rồi! Anh cả con “ông Tám sâu mắt” chứ ai! Đang nghỉ ở nhà bố mẹ thì xe công an tỉnh về bắt! Sao thế? Thấy nói mắc tội tham những, lợi dụng chức quyền cán bộ Nhà nước rút ruột cái kho lớn lắm! Mấy chục tỷ đồng! Dùng toàn xe to với bọn đầu gấu ban đêm chở trộm xi măng nhà máy! Kinh thế cơ à? Đấy gọi là tham nhũng chứ ai gọi ăn trộm! Bắt con gà con qué mới là ăn trộm! Ôi! Cũng một phường ấy cả!...

Mẹ nó đi chợ về, ngoặt vào ngõ. Vai gánh hai cái thúng đựng những quả bí xanh. Mẹ bảo: Mua về phòng cơ mùa mưa bão sắp đến! Nó vít tay mẹ: Mẹ biết không? Bác Cả nhà “ông Tám mắt sâu” vừa bị công an bắt. Xe thùng nhốt giải sang Thị xã! Ư! Biết rồi! Ra tỉnh đấy! Giàu thế thì giàu làm gì cho khổ, cho mang tiếng mang tai. Nhà to tưởng tưởng mồ hôi nước mắt, mà hóa ra toàn của nả cắp trộm của Nhà nước!

Nó chợt nhớ lời người đàn ông mắng nó trong tiệm vàng: “Đồ nhà quê! Ăn trộm quen tay ngủ ngày quen mắt! Hư đốn đấy con ạ!”.

Ôi! Người lớn phức tạp quá!.  -./.

8-2015



VVM.18.04.2025.

| UNIVERSELLE LITERATUR | UNIVERSAL LITERATURE | LITERATURA UNIVERSAL | LETTERATURA UNIVERSALE | УНИВЕРСАЛЬНАЯ ЛИТЕРАТУРА |
. newvietart@gmail.com - vietvanmoinewvietart007@gmail.com .