♣♣♣
Chương 4: Vớt xong về bờ
Các thuyền nhân được chăm sóc và đưa ra phía trước, chứ không được xuống hầm liền, sợ lây ghẻ. Sau vài phút phục hồi lại sức khỏe, đa số quỳ xuống hát những bài thánh ca nghe não lòng. Tôi hỏi đùa :
– Gì dữ vậy ? Đợi chủ nhật hát không được sao ?
Một cụ già đáp lại :
– Bác sĩ biết không… trên ghe hết lương thực, chỉ còn bốn ký gạo nấu cháo cầm bụng cho tài công và trẻ con, xăng nhớt cũng gần hết vì trôi đã gần một tuần rồi. Hôm qua ghe bắt đầu vô nước, chúng tôi tuyệt vọng đã đọc kinh cầu hồn. Giờ được vớt, chúng tôi như hồi sinh nên cám ơn Ơn Trên.
Tôi hỏi chủ ghe :
– Bao nhiêu người tất cả vậy anh ?
– Dạ, không biết. Tụi nó đi hôi (lậu) đông lắm. Chỉ có sáu chục người trả tiền hà !
– Vậy cũng đủ giàu rồi ?
– Bác sĩ nghĩ coi, mổi người trả hai lượng vàng, mà chiếc ghe đã tốn gần một trăm lượng tiền đóng máy ghe, thuế má này nọ luôn.
Tôi đếm được một trăm lẻ một đầu, phần đông là thanh thiếu niên. Họ có vẻ không quen biết nhau nhiều ; tôi e sẽ khó “cai trị“, vì dù sao một đại gia đình cũng dễ bảo nhau hơn là hai anh em hay đôi uyên ương.
Từng nhóm tám người được đưa xuống phòng tắm. Đó chỉ là bốn thùng cây đơn sơ với tấm bố làm màn. Áo quần của những thuyền nhân được để qua một bên. Sau khi xịt nước với ống vòi “chữa lửa“ cho ra nhớt dơ, chúng tôi thoa lên họ thuốc trị ghẻ, để cho khô mới phát quần áo xin được.
Rất nhiều vấn đề phức tạp hiện ra : lúc đứng cho ráo người thì không có gì che, chúng tôi phải làm việc nhanh vì trời bắt đầu tối ; ngoài ra áo quần xin được phần đông là của phụ nữ nên các thanh niên phải mặc quần tím, hồng đỏ… Những người tắm chót thì phải mang “jupe“ hay áo cổ viền reng trông thật buồn cười (nhưng không dám cười !).
Sự chống đối của thuyền nhân lên tột bực khi các bác sĩ Tây định “thủ tiêu“ áo quần họ mang theo. Tôi hết sức cản lại, nói rằng biết đâu họ có giấu tiền bạc dưới cổ áo, khuy nút hay các nơi đặc biệt trong áo quần. Patrick mỉa mai tôi, xé vài áo ra cho coi là chẳng có gì trong đó. Mấy người Pháp sợ cả tàu bị lây ghẻ nên nhất quyết không cho người tỵ nạn đụng vào áo quần cũ. Patrick biện luận :
– Tôi bắt đầu thấy ngứa tay chân rồi, thế nào ghẻ cũng lây.
– Vậy hả ? – những người kia hỏi.
Không đầy vài phút sau, họ cũng bắt đầu gãi… Cãi vả một hồi, tụi nó mới hứa đem áo quần ra sau tàu để giặt, rồi sẽ hoàn lại. Ngờ đâu để mãi không đứa nào chịu giặt, mùi hôi càng ngày càng nồng, thủy thủ đoàn đem vứt xuống biển một đêm nọ.
Vài ngày sau, các thuyền nhân đòi lấy áo quần lại, không có, đâm ra bất mãn chửi bới om sòm. Tôi thông cảm họ nên không giận, chỉ buồn vì không có tiếng nói với bạn trong hội đoàn. Đã bảo loại ghẻ này không lây, nhưng vì tôi là bác sĩ trẻ tuổi nhất trong hội nên đàn anh cho rằng tại tôi thiếu kinh nghiệm (dù rằng tôi chuyên về bệnh xứ nóng và nghèo).
Đời thật mỉa mai, phải chăng là nợ số : thoát khỏi bọn hải tặc Thái lại bị “bác sĩ cướp lấy nữ trang, tiên bạc rồi thủ tiêu dấu tích“. Tiếc rằng tôi đã cản không cho quăng áo quần lúc vừa tắm xong, ít ra mọi người đều thấy không có ai lục soạn đồ đạc và tôi không bị mang tiếng !
Ngày qua ngày, sự va chạm giữa bốn trăm năm mươi thuyền nhân xảy ra rất thường xuyên : những thuyền nhân biết điều, biết tự trọng, biết nhường nhịn không thiếu nhưng họ im lặng quá. Trái lại sự cãi vả, đánh lộn, thanh toán nhau vì kẻ này đi “hôi”, cánh “Tám Đen” hay “Bảy Nghé” gì đó đưa tiền chưa đủ… thì ầm ầm suốt ngày. Một anh nọ đi cầu làm rớt tiền trong ấy, đến khi nhớ ra liến chạy vào “hỏi giấy” một đồng hương đang ngồi trong cầu ! Đôi khi ban trật tự phải dàn xếp bằng vũ lực. Tôi vô cùng mệt mỏi vì không có chỗ nghỉ ngơi. Làm việc từ sáu giờ sáng đến mười hai giờ đêm vẫn chưa được yên. Vì tàu chỉ có ba nồi cơm điện và hai bếp ga, nên cho đến mười hai giờ khuya vẫn còn có người đang nấu cơm trách móc nhau ồn ào về gạo ít gạo nhiều, muối, tỏi, vân vân… Sáng sớm sáu giờ đã tranh nhau cái bếp để nấu cháo ăn lót lòng.
Những đề nghị của người tỵ nạn như xin năm lít nước ngọt cho mỗi người thay vì chỉ ba… tôi chuyển lại cho các bạn trong hội đoàn thì bị chỉ trích là “vô trách nhiệm” hay “thiên vị quá đáng”. Ngược lại, khi tôi trình bày cho đồng bào nghe quyết định của hội đoàn thì bị lên án là “không hết lòng giúp…”. Ngoài ra những vụ vào kho để lấy trộm thức ăn cũng khiến tôi xấu hổ vô cùng cho dân Việt Nam. Kouchner ra thông cáo : “Bất cứ ai bị bắt đang lấy đồ đạc hay lục lạo trong phòng sẽ bị cấm nhận giấy nhập cảnh vào Pháp”. Biện pháp ấy chẳng ngăn được sự việc này. Nhiều đêm giông tố tàu lắc “nhử tử”, dù cửa sắt hành lang đã đóng lại, các thủy thủ vẫn bắt gặp trộm. Họ có rượt theo nhưng không kịp. Ông thợ máy già than thở cùng tôi :
– Dân anh dẻo như khỉ, tưởng tượng đêm qua bão như thế mà nó nhảy qua hông tàu, đu ngang cửa sắt hành lang. Rủi nó té thì làm sao ? Thời gian tôi mở cửa sắt là nó đã chạy xuống hầm rồi.
Tôi hỏi :
– Ông nhớ mặt anh ta không . Chỉ tôi xem.
– Mấy anh, người nào cũng mắt híp hết.
Sau đó tôi dùng kế mua chuộc (cho thuốc hút và bia lạnh) dể tìm ra thủ phạm. Tên tuổi những “phe nhỏ” được tố cáo nhưng tôi biết đây chỉ là mồi nhỏ mà thôi nên không đưa danh sách cho Kouchner trừng trị. Dù sao cũng tội nghiệp cho tương lai học vấn của các em nếu phải bị “tù đày chung thân” (không được chấp nhận định cư) ở trại tỵ nạn chỉ vì tội ăn cắp vài hộp thịt hộp hay vài lon bia. Máy chụp hình, giấy tờ và sách vở thì không mất.
Chúng tôi hẹn gặp tàu hải quân Balny ngày mai để xin nước ngọt vì tàu Goelo sắp cạn vừa nước ngọt vừa lương thực (dân tỵ nạn tắm và giặt đồ với nước uống). Nếu kể luôn số gạo bị mất thì tính ra mỗi đầu người ăn đến một ký hai trăm gờ ram mỗi ngày thay vì bốn trăm gờ ram mỗi đầu người như dự định.
Tôi rất lo lắng đến sự hỗn độn vào ngày mai khi được biết tàu Balny sẽ nhận lại tám mươi người cho đủ số một trăm năm mươi người mà Singapore cho phép Balny đem vào. Số còn lại sẽ theo tàu Goelo đi Phi Luật Tân.
Đêm nay sự lo âu pha lẩn với nỗi buồn uất ức của kẻ mất nước. Nhìn đèn tàu Nga ra vào Sài Gòn lòng tôi căm hờn tột bực bọn người buôn dân, bán đứng tuổi trẻ của nửa triệu thanh niên Việt Nam sang Tây Bá Lợi Á. Một ý nghĩ điên cuồng bỗng nảy ra làm tôi hài lòng phần nào vì có thể thực hiện được (Goelo chỉ cách Sài Gòn sáu mươi hải lý). Chuyến đi kỳ sau, tôi sẽ cố mua vài vũ khí như lựu đạn và lén ban đêm lấy chiếc zodiac của hội (loại ca-nô của quân đội, chạy rất nhanh để rượt cướp Thái) khi tàu trở lại ngang Sài Gòn, tôi sẽ lái vào hải cảng quăng lên tàu Nga mỗi chiếc một quả lụu đạn rồi “vọt” trở ra khơi, đợi Goelo trở về từ Cam Ranh vớt lên. Tôi khoái chí mỉm cười rất lâu khiến anh thủy thủ gác chung tưởng đang nghĩ chuyện chơi bời nên trêu chọc :
– Nhớ vợ hả bác sĩ ? Sắp trở về bờ rồi, ráng đi. Tôi sẽ dẫn đi “thăm” mấy “em Phi”.
Tôi không đính chánh làm gì, bí mật quân sự mà ! Tôi tin chắc chuyện đó làm được : tấn công ban đêm, trên một chiếc zodiac nhỏ chạy nhanh và dễ “lạng”. Tiếc thay, máu anh hùng mau nguội vì chợt nhớ ra là tôi không biết bơi và rất sợ cá mập. Rủi bị thương té xuống biển thì… chắc đứt tim chết trước khi cá mập đến “hỏi thăm sức khỏe”.
Sáng hôm sau , trời ui ui như cùng chia buồn trước cảnh biệt lưu ý : hai tàu Balny và Goelo thả neo gần nhau để tiện việc bơm nước. Các thuyền nhân xôn xao bàn tán đoán xem ai sẽ được chuyển sang tàu hải quân, và tỏ vẻ lo lắng rủi ro còn bị “kẹt” lại Goelo thì phải chịu lênh đênh thêm bao lâu nữa ? Nhiều người níu tôi lại hỏi, nài nĩ vận động cho họ được qua Balny. Tôi chỉ trả lời : “Sẽ rút thăm chứ tôi không giúp riêng ai được !”.
Đến giờ, mỗi lá thăm được rút ra (tính theo gia đình) là mỗi lần gây cảm xúc mạnh. Mặt mày hớn hở, nhảy la, chạy xuống hầm lấy hành trang… Những người tốt phước ấy vui mừng còn hơn trúng số độc đắc. Lá thăm cuối cùng rất là hỗn độn : một số người giả bộ xô đẩy rồi trà trộn vào đám người được đi chính thức khiến tôi đau đớn nhớ đến cảnh loạn ngày 30 tháng 4 năm 1975 trước tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn. Balny phái thêm lính hải quân qua Goelo giữ giúp trật tự, giăng dây ra ngăn lại một bên tàu, rồi kiểm soát lý lịch từng người trước khi cho xuống ca nô.
Quá chướng ta mắt, tôi bỏ vào đi tắm cho nguôi giận. Đành rằng ăn uống trên Goelo rất cực khổ, mỗi bữa cơm chỉ có một con cá mòi và chút đỉnh canh chan vào cơm trắng, nhưng chịu đựng thêm vài ngày có chết đâu ? Vả lại không làm buồn lòng những người đã bỏ việc làm, gia đình và sự yên vui để đi công tác. Họ có ý muốn chia sẻ khổ cực với dân nước mình mà thái độ này giống như xem họ là loài quỷ đỏ hiếp hại dân lành lắm nên phải cấp tốc xa lánh bằng mọi cách.
Tôi rất cảm động và bớt xấu hổ khi nghe chị dược sĩ Long Hầu xin tình nguyện ở lại Goelo để phụ giúp chúng tôi, nhưng Kouchner không
chịu tuy ông rất cảm động cử chỉ đẹp và đầy ơn nghĩa này. Riêng tôi cũng mừng giùm chị được về trước (để hai cháu gái tựu trường cho kịp niên học tới), tuy rất buồn vì mất đi một người phụ giúp đắc lực và một người bạn tâm sự.
Khi trở ra tiễn bác sĩ Kouchner và phái đoàn báo chí qua Balny về Singapore trước, tôi vẩn còn thấy nhiều người gào khóc… đến ói ra lãi đũa trên boong tàu. Tôi làm lơ như không thấy chi. Một bà nọ kêu tôi vừa khóc vừa chỉ đứa cháu gái :
– Bác sĩ cứu giùm dì cháu chúng tôi… cho qua Balny đi, kìa bác sĩ nhìn đi (tay bà chỉ con lãi đũa hơn hai mươi phân đang giãy dụa trên boong tàu), cháu tôi nó đau sắp chết rồi, mới ói ra lãi đấy !
Lòng tôi buồn bã lạ thường khi ôm các bạn đồng nghiệp chào họ trước khi chia tay tưởng như không còn gặp lại họ nữa ! Cảnh chia lưu ý giữa biển mông mênh có cái gì thật bi thảm khó tả. Còi tàu hụ làm tê tái cả lòng tôi. Dần dần hình dạng Balny biến mất trong sương mù để rồi chỉ còn nghe một tiếng còi dài cuối cùng vang ra.
Tôi cảm thấy bơ vơ, vì chỉ còn lại vài người trong hội đoàn và một số người tỵ nạn mà tôi không hạp gì cho mấy. Có một anh chàng mà các bạn tỵ nạn khác gọi là “đĩ già” vì là một cựu tỉnh trưởng quen thói “hào hoa phong nhã”, sang trọng, hay gớm hay chê này nọ trên tàu. Bầu không khí bữa cơm chiều thật sầu thảm như có tang. Không ai nói chuyện, chỉ nhìn nhau như muốn hỏi : “Mày cũng buồn nữa hả ?”.
Tôi hồi nhớ lại thảm cảnh em bé gái mười bốn tuổi, bị bọn hải tặc hãm hiếp rồi bắt cóc cùng mười hai thiếu nữ khác. Tàu Cap Anamur bắt gặp và rượt theo. Nhắm thoát không khỏi và sợ bị đụng chìm, bọn cướp Thái xô từng người tỵ nạn xuống biển để Cap Anamur ngưng lại vớt. Tám cô được cứu vớt ; bốn người còn lại, trong đó có em bé gái mười bốn tuổi kia, chết đuối vì quá kiệt sức sau mấy ngày bị hãm hiếp tập thể nên không còn sức để bơi.
Những ngày cuối cùng trên tàu, trước khi về Phi Luật Tân, ai nấy đều vui cười khiến tôi cũng thoải mái phần nào, nhất là khi nhìn vài người tỵ nạn phụ thủy thủ đoàn sơn lại chiếc tàu “tình thương”. Sau cơm chiều, tôi hay ra ngồi trên lui hầm tàu, bàn chuyện với anh em về cuộc sống bên Pháp, chương trình học vấn, trợ cấp chánh phủ… Tình đồng hương thật đậm đà, anh em rù rì chuyện trò đội khi đến rất khuya. Một anh mời tôi điếu thuốc hiệu “Đà Lạt” ; tuy bên nhà chưa hút loại thuốc này, tôi nhận món quà quý giá đó.
Gió mát thổi hiu hiu, tôi kéo mạnh một hơi và giữ lấy hương khói khá lâu trong lòng ngực, như cố giữ mùi vị thơm ngon của quê hương. Tôi ngẩng đầu lên nhìm vòm trăng sáng, phì mạnh ra như trút đi nỗi bất mãn của người bị lưu đày, như muốn hỏi chị Hằng :
– Chừng nào chúng tôi sẽ trở lại quê nhà ?
Lúc đó bài hát Thương hoài ngàn năm trở lại trong tâm trí, khiến tôi tê tái cả lòng :
Trăng khuyết rồi cũng khi đầy
Xa cách rồi cũng xum vầy
Mây bay, bay hoài ngàn năm…
Không phải để tìm lại người tình xưa hay người bạn cũ nhưng là một hình bóng huyền diệu thiêng liêng tai không nghe, mắt không thấy được nhưng chỉ có tâm tư mới nhận diện được khi đặt chân trở lại đất nước thân yêu.
Đến hải cảng Puerto Princesa, đảo Palawam vào một buổi sáng chủ nhật âm u, lòng tôi lại càng bùi ngùi trước giờ lưu ý biệt. Hải quân Phi ra đón tàu Goelo đậu trước vịnh, lên kiểm kê giấy nhập cảnh và lục soát các thuyền nhân xem có đem súng ống, cần sa hay ma túy… may mà họ không mang máy radar rà súng vì có người đến cho tôi hay ông chủ ghe nọ có chôn cây súng lục (dưới tấm ván chõi- ông ngủ) nên tôi định đợi dịp tàu trở ra khỏi đảo lén lấy dùng lúc hữu dụng. Tôi vẫn nghĩ rượt theo cướp Thái mà không mang súng giống như đi tay không vào hang cọp, nhưng các bạn Pháp vẫn từ chối mọi hình thức bạo động. Họ chỉ muốn thuyết phục mà thôi. Nhờ hải quân Phi lục soát kỹ mà hội lấy lại được vài chục ký gạo và vài trăm muỗng, đĩa và dao.
Từng hàng hai, anh em đến chúc chúng tôi thượng lộ bình an, cám ơn đôi. lời. Có người lại cố vấn thêm :
– Chúc bác sĩ kiếm được việc làm ở chỗ khác tốt và đỡ mệt hơn !
Tôi nhớ mãi hình bóng duyên dáng một thiếu nữ đến gặp tôi, lúng túng nói :
– Dạ thưa bác sĩ, vì đã vượt biên hụt bao lần nên em không còn gì để biếu… Vậy xin bác sĩ vui lòng nhận kỷ niệm này…
Vừa dứt lời, cọ vội vàng xuống ghe. Thắc mắc, tôi mở gói quà ra : một hộp thuốc ngừa thai dùng chưa hết và đôi dòng tâm sự.
Sau này tôi được biết phần đông các thiếu nữ vượt biển “lo xa” nên đều uống thuốc ngừa thai trước khi lên ghe. Phải chăng đó là giá phải trả để đi tìm tự do ?
Khi mọi người đã xuống ghe (do Cao Ủy Tỵ Nạn mướn để ra tàu đón thuyền nhân vào bờ, với sự cộng tác của các thanh niên hướng đạo ở trại), bạn “đĩ già” của tôi muốn huy hoàng phút chót nên lật đật sửa soạn áo quần rồi làm diễn văn nói chuyện vòng vo tam quốc. Đến khi mượn tôi dịch ra Pháp ngữ, tôi chỉ “thu lại” thành một lời chúc gọn gàng và thành thật : “Chúc mọi người sớm được đoàn tụ gia đình và an hưởng một cuộc sống mới đúng như sự mong muốn tự bao giờ !” nên anh ta tức lắm.
Thuyền nổ máy làm tan sự yên lặng sững sốt của mọi người như đang tự hỏi : “Tôi có đang mơ hay không khi nghe những chữ đoàn tụ, an hưởng… những chữ đó trước đây thật xa vời nhưng nay sẽ trở thành sự thật hữu hình.
Dẩn dần những cánh tay giơ lên ngoắt chào chúng tôi, một số thanh niên hăng máu hơn đã hét lớn :
– Hoan hô anh Hiển, cám ơn anh Hiển !
Tôi rất cảm động. Buồn cười là cô y tá nói nhỏ với Patrick :
– Họ cũng biết ơn mình quá chứ !
– “Toa” không biết chứ, hồi thời Ile de Lumière mấy người Việt Nam biết điều hơn mấy người này nhiều. Tôi còn nhớ lúc đó áo quần dơ của tôi, mấy người tỵ nạn dành nhau xin giặt để trả ơn… (Patrick thở dài luyến tiếc thời “vàng son”).
Cô y tá quay qua tôi, hỏi :
– Sao, hôm rày thấy anh “friendly” (thân) với họ lắm, có chuyện gì hấp dẫn (với nghĩa bi đát, đáng thương) kể cho tôi nghe vì tôi về Thụy Sĩ sẽ lên “tivi” kêu gọi xin tiền cho “boat people” !
Tôi im lặng. Sống trên tàu bốn tuần nay với hơn bốn trăm người tỵ nạn
bần cùng trong miếng ăn, giấc ngủ, chưa thấy phải là chuyện đáng thương tâm sao cô ơi ?
Chương 5: Về trại Palawan lần cuối
Tháng bảy bão lớn, gió đôi khi thổi tắt bếp gaz, sóng lắc đổ cả nồi chén nên chúng tôi phải phát bánh lạt muối và chút đỉnh mứt cho các thiuyên nhân ăn dằn bụng.
Mai trở lại trại, niềm vui hiện rõ lên mặt mỗi người lẫn với nỗi buồn man mác trước ngày chia tay. Kỳ này chỉ vớt được một trăm hai mươi người nên có phần gần gũi hơn là với những nhóm trước.
Chiều chiều, chúng tôi hay tổ chức cho từng toán mười người đi viếng từ phòng này đến phòng lái, sau cùng vào phòng ăn dùng cà phê, trà, bánh, nghe nhạc (máy chúng tôi mới mua ở Singapore sau này).
Những người đứng tuổi rất cảm động nghe lại những bản nhạc Việt Nam xưa, lim dim thả hồn về kỷ niệm yêu dấu của khoảng đời đầm ấm cùng gia đình xum họp dưới một mái nhà; Hơn một người đã thầm khóc với bản “Thôi” nức nở của Thái Thanh.
Đám trẻ lại say mê nhạc “ngụy”; bậm môi nhịp đùi với những bản khích động nhạc của Led Zeppelin hay khoan khóai hít hà theo nhịp điệu du dương của nhạc “xì lô” Mỹ. Lúc ra về, một em hỏi tôi :
– Bên Tây đi phòng trà mắc không anh ?
Tôi mỉm cười trả lời lại :
– Lo để dành tiền giúp gia đình bên nhà đi chớ !
Thật ra chính chế độ “xã hội chủ nghĩa” hiện tại (hay nói nôm na ra là chế độ cộng sản) mới đáng trách vì chính sách ngu dân của họ, gò bó, cưỡng ép tuổi mộng mơ của các em vào những “công tác xã hội” hay đẩy các em vào con đường phải tìm kế sinh nhai quá vất vả để rồi tuổi trẻ này bỏ nước ra đi, chỉ mang theo những kỷ niệm riêng của gia đình chứ không có được những gì đẹp về nền văn hóa Việt Nam nói riêng và đất nước nói chung.
Sung sướng nhất là các em nhỏ : ngoài chuyện ông đầu bếp đem kẹo và làm bánh cho mỗi chiều, các em còn được tắm “piscine”. Tháng này chúng tôi đã vớt được ba chiếc ca nô cao su lớn (loại cấp cứu) của một tàu buôn Panama mới bị bão đánh chìm. Thủy thủ đoàn tàu chìm này đã được một chiếc tàu khác tới trước vớt lên. Cả ba chiếc ca nô được giăng lên mui hầm tàu Goelo và được bơm nước biển vào để làm hồ tắm công cộng.
Trong hầm còn chỗ trống nên thuyền trưởng cho phép mở bàn đánh ping pong để cho các thanh niên Việt Nam huấn luyện các bạn Pháp.
Tôi ít ưa chơi môn thể thao này vì nóng tánh, hay xì nẹt, nhứt là bị “bỏ nhỏ”, muốn phóng lại phía kia đỡ banh mà sóng lắc mạnh phía nọ làm chân bị “dính” vào đất, lại vói tay không tới nên thua hoài.
Tóm tắt sinh hoạt trên tàu không thua gì trại hè.
Tối, tôi hay mang đàn Tây Ban Cầm ra cho các anh em muốn giúp vui văn nghệ. Tôi mua lại của các thủy thủ vài chai bia và whisky, còn ban ẩm thực lo chấy tôm khô với chút tỏi ớt làm “mồi” nhậu lai rai. Tuyệt vời ! Không một phòng trà nào có thể tạo lại bầu không khí đó, dù cho có rượu ngon, món ăn quý hơn và ca sĩ tài hơn.
Rất giản dị, chúng tôi ngồi trên boong tàu phía trước. Gió mát, trăng sao rất hữu tình. Sóng nhè nhẹ nhịp theo tiếng hát êm dịu hay câu thơ ngậm ngùi làm hồn khoan khoái với men rượu và vị khô mặn cay.
Sáng hôm sau đến hải cảng. Như thường lệ, hải quân Phi Luật Tân lên tàu trước để làm thủ tục nhập cảnh. Như mọi khi, thùng quà biếu (thuốc lá Mỹ và whisky) cũng đã sẵn sàng để cám ơn sự sốt sắng của các “ngài” đã chịu khó ra tàu sớm.
Một viên thanh tra xin thêm báo “ấy” với nụ cười tủm tỉm và đôi mắt láo lia như ngại ngùng không dám nói ra chữ Playboy hay Penhouse, khiến tôi nhịn cười không được ! Tiếc rằng không có hình con trai ở truồng đem ra chọc hắn một phen.
Một lát sau, thuyền lớn ra đón các thuyền nhân vào bờ. Tôi nhìn ra hình dáng quen thuộc của chị Anh Vân (trưởng ban hồ sơ) và của anh Hùng (trưởng ban trật tự) đi cùng các anh em hướng đạo ra đón và tiếp tay các đồng bào xuống ghe. Sau đó sẽ có xe vận tải chở về trại :
“Mến chào các bạn đồng hương !”. Tiếng nói của anh Hùng qua loa phóng thanh khiến đồng bào tỵ nạn cảm động vô cùng.
Lời chào của cộng đồng Việt Nam hải ngoại đã xoa dịu được phần nào những khổ nhọc sau bao ngày lênh đênh, lạc lõng giữa biển cả mênh mông. Chính tôi cũng cảm thấy phấn khởi khi nhìn thấy các thanh niên kia uy nghi trong y phục của ban tổ chức trại Palawan, với lá cờ vàng ba sọc đỏ bên tay phải áo.
Ghe vừa neo vào tàu Goelo, các anh vội lên hỏi thăm ân cần đồng bào rồi mới xuống hầm nói chuyện về tổ chức cuộc sống ở trại, cách làm thủ tục xin định cư và sau đó trả lời những thắc mắc về cuộc sống mới.
Xong cơm trưa, tôi nóng lòng đợi các bạn xuống ghe để vào thăm trại. Hải cảng Puerto Princesa thật là thơ mộng nhờ nằm trong vịnh với dãy núi trải dài phía sau. Đây đó nhấp nhô vài biệt thự mới. Đỉnh nhà thờ trắng nổi bật giữa các lều tre xập xụi, tương tự như một làng Việt Nam khiến tôi bồi hồi tưởng như sắp đặt chân lại trên quê hương. Ghe tấp vào bến. Chủ thuyền đặt xuống một tấm ván nhỏ làm thang lúc lắc… rồi từng người nín thở cố bước đi thật khéo. Người nào thành công đến chốn an toàn được các bạn vỗ tay khen ngợi. Dân địa phương cũng cười xòa trước sự vụng về của chúng tôi. Sau đó chúng tôi lấy xe lam, từng nhóm ba người để đến trại : đây chỉ là xe máy dầu (Honda) gắn vào một thùng có bảy chỗ ngồi. Nếu quen với chú tài xế thì được ngồi chỗ ôm phía sau… êm hơn ! Bên ngoài xe thì sơn đủ màu tím, đỏ… coi rất vui mắt. Mỗi xe đều có tên một nữ tài tử xi nê như là Ursula, Jane, vân vân… thật là buồn cười.
Trại tỵ nạn nằm cách xa bến cũng hơn mười cây số. Trên đường đi chúng tôi gặp một Phái Đoàn Tỵ Nạn (bốn trăm người) ra hải cảng đi trại Bataan để chuẩn bị lấy phi cơ đi Hoa Kỳ và Úc. Họ vui mừng chào và vẫy tay theo chúng tôi.
Tỉnh này nghèo, khoảng mười lăm ngàn dân, sống nhờ vào sự hiện diện của năm ngàn người tỵ nạn trên đảo, nhất là nhóm xe lam chở người Việt ra vào thành phố hay ra hải cảng (giá lúc nào cũng đắt hơn vì họ biết mấy người này sắp được đi định cư nên “vui tánh và rộng rãi hơn”). Trại tỵ nạn rất là thoải mái, ra vào tự do, chỉ đóng cổng từ lúc mười giờ tối đến sáng sớm thôi.
Đến trước cổng trại, một số đông thuyền nhân cũ, đã được tàu Goelo đưa đến trước, ra đón chào chúng tôi một cách thân ái và cảm động. Tôi nhận ra mang máng vài khuôn mặt vì hầu hết đều lên cân rất nhiều… vài người đã cạo đầu để giữ lời hứa đã khấn vái trước khi ra đi. Đớ là chưa kể sự thay đổi của các cô, các bà, ai cũng cao lên nhờ những đôi giầy cao gót kiểu mới, hồng hào son phấn như đầm lai trong bộ jeans bó người. Nhiều cô tiến bộ mau hơn đã bắt đầu tập hút thuốc. Rồi đây “toa moa” được vài câu là các cậu sinh viên du học ngày xưa sẽ tha hồ làm thơ, thả hồn theo trăng gió !
Anh em gặp lại hỏi nhau sức khỏe và việc định cư. Một em bé khoe với tôi :
– Ở đây ăn uống đúng “tiêu chuẩn” lắm bác sĩ ơi ! Có cá tươi, thịt heo và trái cây nữa !
Một anh chặn lại :
– Xạo mày ! Bác sĩ biết không tại nó láu cá ; thấy nó còn nhỏ không ai rầy la nên nó “lương” (ăn cắp) đồ nhiều hơn.
Anh em cười xòa rồi tôi theo các bạn về “nhà”. Trại được chia làm chín khu, chứa khoảng tử bốn đến năm ngàn người. Có khu gồm những nhà công cộng lớn cho những người mới tới. Mỗi căn làm bằng cây với nóc nhà rơm, bên trong phân chia bởi một đường đi giữa ; hai bên hành lang ấy là hai dãy phòng rộng mỗi gian hai thước. Cứ bốn người được phát một phòng, hai người ngủ ở dưới, hai người ngủ ở gác trên. Để dễ diễn tả hơn thì cứ tưởng tượng như vào… chuồng ngựa ! Phía sau là một dãy bếp công cộng với những lò đất. Các bà, các cô đang “hầu ông táo”, thấy tôi vào vội đứng dậy bẩm thưa làm tôi ngại vô cùng.
– Trời ơi, sao bác sĩ ốm quá vậy ?
Tôi mỉm cười :
– Tại mấy chị mập ra đấy chứ !
Mọi người cườì ầm ĩ làm cho giây phút gặp lại nhộn nhịp, vui tươi và khó quên. Còn mấy cu tí thì khóc inh ỏi khi mấy má bảo :
– Ra thưa bác sĩ đi chứ ! Đâu có chích đâu mà sợ !
Sau đó chị Ánh Vân đến dẫn tôi đi viếng trại. Tôi có cảm tưởng như đang về thăm thôn quê Việt Nam với những hẽm nhỏ bùn trơn đá gồ ghề, với những chòi tranh hai bên và hàng ghế tre trước cửa, lu nước sau nhà. Đó đây vài đám thanh niên đánh bài “cắt tê” cho qua thì giờ. Một anh nhìn tướng tá đen đúa và bộ tóc quăn dài của tôi rồi ngạc nhiên bảo các bạn :
– Bữa nay sao có thằng Phi này vào trại ? (Trại này có đặc điểm là hoàn toàn tự trị, lính Phi chỉ gác cổng và chỉ được quyền vào trại khi nào banh trật tự trại, toàn là người Việt, mời vào).
– Chắc có đánh lộn lớn ? – một anh khác vừa trả lời vừa chưng “tẩy”.
Tôi mỉm cười trong bụng, bước tới gần sòng bài, nói : “Mấy anh mạnh giỏi ?” khiến một anh hết vía la lên :
– Trời đất ! Thằng Phi này nói tiếng Việt bỏ dấu hay quá !
Chị Ánh Vân can vào :
– Phi nào mà bỏ dấu Việt ngữ giỏi vậy ? Bác sĩ Việt Nam của tàu Goelo đó !
Thăm hỏi đôi lời rồi tôi đến xem lò bánh mì, lò làm bún : các công nhân là người tỵ nạn, tình nguyện giúp trại ngoài giờ học sinh ngữ (chỉ được chút đỉnh tiền túi là hai mươi đô la mỗi tháng thôi).
Đi ngang trường học, các trẻ em đang chăm chú học khiến tôi cảm phục ý chí bất khuất của đám mầm non nước Việt Nam sau này : trong hoàn cảnh thiếu thốn muôn điều, từ tinh thần đến vật chất, mà còn “xôi kinh nấu sử” không phải là điều đáng khen sao ?
Qua đến lớp sinh ngữ, tôi rất ngạc nhiên nghe tiếng cười là hăng hắc. Té ra la Thiện (thông dịch viên) và cô y tá Catherine đang giảng bài và chỉ cách đọc cho rõ câu : “Le chasseur sachant chasser sans son chien”.
Những âm “sờ” và “xờ” đảo lộn nhau tưng bừng, mỗi khi Thiện bắt lặp lại câu đó nhanh hơn… và càng nhanh hơn.
Cuối cùng tôi vào câu lạc bộ ăn chiều. Các phái đoàn thường đến đây ăn uống ; tiền lời của quỹ được dùng vào việc bổ ích chung như in báo, văn nghệ hay mướn phim vidéo về chiếu ngoài trời mỗi tuần.
Thấy tôi ăn mặc giống dân tỵ nạn với cái quần xà lỏn xanh của trại phát (một anh tỵ nạn cho lại) nên cô chạy bàn ngạc nhiên hỏi :
– Mới đến đảo hả ? Với tàu Pháp ?
– Dạ, hôm qua.
Tôi ăn đĩa cơm rang Dương Châu quá ngon lành (vì lâu quá thèm đồ ăn Việt Nam) làm cô ta hỏi tiếp :
– Trên tàu ăn uống cực lắm phải kế hoạch, nghe nói họ cho ăn ít lắm !
Tôi mỉm cười không trả lời.
Lát sau, khi bưng trái soài ra, cô ấy xin lỗi (vì bà bếp mới cho biết tôi là “bác sĩ ” của phái đoàn trên tàu Pháp đó) :
– Bác sĩ đừng giận em…Đâu ngờ bác sĩ trẻ quá vậy !
Phái đoàn trưởng và thuyền trưởng đề nghị ở tại đảo Palawan thêm ba ngày, để nghỉ và sửa chữa tàu chút đỉnh. Vả lại không có chi gấp vì lúc này trăng rằm sẽ không có thuyền vượt biển. Ai muốn đi đâu ăn ngủ đâu cũng được. Tôi, Thiện và Catherine vào trại ở, để “nếm mùi tỵ nạn” cho biết, nhưng ít khi đi chung. Hai người kia thích đi cùng các bạn tỵ nạn mà họ đã săn sóc, còn tôi muốn tìm hiểu sâu xa hơn cuộc sống ở trại này, nên tách đi riêng, để có thì giờ nghe lời tâm sự của người đồng hương.
Mỗi hẻm, tôi cố đến gặp gỡ một số đồng bào. Đâu đâu ai cũng nồng hậu đón tiếp (khui bánh Tây, mời thuốc lá Mỹ, lăng xăng đi mua nước đá dừa Xiêm, châm trà hay mời ở lại dùng cơm…) khiến tôi cảm động đến… cà lăm. Chỉ có vài người vẫn còn muốn “hỏi giấy” tôi. Một đêm nọ, một ông đi ngang “kênh” tôi bảo :
– Nhường cho mày đó !
– Nhường cái gì chứ anh ? – tôi ngạc nhiên hỏi lại.
– Thì con vợ tui đó. Lúc vượt biển đồng lòng đi Úc, bây giờ nó sanh chứng nộp đơn theo diện tàu Pháp vớt chứ không chịu xin đoàn tụ gia đình bên chồng ở Úc nữa.
Thấy anh ta có vẻ say rượu, tôi không cãi lý cho mệt.
Đến vài nhà khác, tôi cố giải quyết giùm vài vấn đề tìm thân nhân, giúp cách tìm hội bảo lãnh cho các em vị thành niên, chia sẻ những lo âu… Nhưng lắm lúc gặp nhiều thảm kịch khó giải quyết được.
Một người đàn ông đến nắm vai tôi, mắt nhòa lệ :
– Bây giờ chắc con tôi đẻ rồi hả bác sĩ ? Vợ tôi có thai bảy tháng, bị cướp Thái hãm hiếp rồi dẫn đi… cách đây hai tháng… (anh ngẩng mặt lên trời như muốn trách cứ vũ trụ tại sao ? rồi nói tiếp). Mà không biết nó có sao không ? Má nó bị đánh đập quá vì không chịu theo bọn hải tặc. Bác sĩ làm ơn lái tàu Goelo đến đảo Kra tìm vợ tôi… tôi đội ơn !
Một nhóm thanh niên nọ đến năn nỉ :
– Bác sĩ thưa với phái đoàn làm ơn lên miền Trung vớt giùm bà con chúng tôi. Miền Trung khổ nhiều rồi, cầu mong bác sĩ cứu nạn. Miền Nam ghe còn có máy chứ chúng tôi vượt biên với thuyền buồm !
Tôi có đề nghị lại với thuyền trưởng là nên lên đến Đà Nẵng thử một lần. Goelo có đi một lần nhưng không gặp ghe nào nên lộ trình mới bị bãi bỏ. Thật sự muốn cho hữu hiệu và công bằng cho cả miền Nam và miền Trung thì phải có hai chiếc tàu chạy ngược nhau từ Cà Mau lên và từ Đà Nẵng xuống.
Tối đến, tôi hay đi dạo quanh trại, nhìn trộm qua các khung cửa sổ mục nát xem đồng bào đang làm gì. Người thì viết thư tâm sự với bạn thân sống ở Âu Mỹ, người thì may áo quần thuê kiếm thêm chút vốn chờ ngày được định cư, người lại hát cho dịu nỗi lòng đớn đau trằn trọc suốt đêm dài… Hàng trăm cử chỉ của những người bị tình đời bạc đãi, của những người khắc khoải chờ đợi giấy định cư mà giấy phép ấy chẳng bao giờ đến khiến tôi xót thương vô cùng.
Một hình ảnh rất khó quên xảy ra một đêm nọ, khi tôi đi dạo trại cùng một đám thiếu nhi. Đứa đi trước đứa chạy sau, đứa nắm tay khoe được lên lớp tựu trường năm nay, đứa khoe nhận được quà thân nhân gởi… tôi chợt chú ý một em bé không nói chi hết mà cứ nắm chặt tay tôi… như cố bám níu vào một lẽ sống. Ngạc nhiên, tôi dừng bước lại, vuốt tóc em hỏi :
– Có chuyện gì buồn không em ?
Em mếu môi khóc, bảo là nhớ ba quá. Tôi không dám hỏi thêm, sợ khơi lại niềm đau trong lòng bé nhưng trong tôi chợt xót xa và thắc mắc vô hạn. Ba em đâu rồi ? Em còn má hay anh chị em không ?
Lần đầu tiên trong đời tôi biết được nỗi buồn đến không còn sức đứng vững nữa. Tôi vội ngồi xuống băng tre trước chùa, tâm phân vân tự hỏi không biết có bao nhiêu đứa trể mồ côi cha mẹ ở trại này ?
Tiếng chuông mõ từ chùa vang ra càng làm lòng tôi tê tái đớn đau. Tôi quay đầu lại nhìn vào Niệm Phật Đường. Phật uy nghi ngồi nhìn đám con thơ đang gục đầu dưới vạn mối lo âu, đang cố van xin chút ân huệ. Tiếng tụng niệm đều đều khiến lòng tôi lắng dịu xuống. Bỗng nhiên tôi thấy buồn ngủ. Tôi muốn ngủ cho quên hết, cho không còn nghe thấy những thảm cảnh này nữa.
Tôi về “chuồng ngựa” ngủ, mê man được một hồi khiến các người chung quanh tưởng tôi đi nhậu mới về, vì ngang trước cổng trại, phía bên kia đường, có những quán nhậu bình dân, thiên hạ có thể vào uống bia và nhảy đầm đến mười giờ tối. Giắc ngủ chập chờn với những đợt tấn công của muỗi và rệp. Tôi là nạn nhân thê thảm nhất của hai thứ này vì không có lãnh mền mùng như các đồng bào tỵ nạn. May phước, kế chỗ tôi nằm có anh bạn vừa buông tờ báo Tiền Phong xuống ngủ, tôi bèn lấy tờ báo làm quạt, quạt đỡ. Trong khi anh ấy ngủ thẳng giấc như một đứa trẻ thơ vừa được mẹ kể chuyện đời xưa, tôi chỉ chập chờn được đôi chút rồi không còn ngủ được nữa.
Mười hai giờ khuya, tôi ra tháp tùng với các anh em ban trật tự để trò chuyện và đi “hành quân”. Khoảng năm mươi người tình nguyện, được chia làm từng nhóm năm người để đi khắp trại xem xét coi có kẻ trộm thừa giấc ngủ của dân lành mà cướp bóc không. Từng đoàn lặng lẽ di chuyển qua các hẽm sình lầy, tay cầm đèn pin để rọi tránh các khúc cây gãy trong trận mưa vừa qua, làm tôi vui thú tưởng tượng như đang đi trong bưng, lùng bắt cộng sản.
Có một đêm chúng tôi rượt bắt trộm hơn một tiếng đồng hồ mà không được vì bọn nó đã tẩu thoát ra bãi biển và núp trong các bụi cây.
Mỗi buổi sáng thứ hai mọi người đều dậy sớm để chào quốc kỳ lúc tám giờ. Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ được từ từ kéo lên bởi các anh chị em đại diện quân đội Việt Nam Cộng Hòa ngày xưa, với sự hiện diện của quân lực “đồng minh” Phi. Các phái đoàn ngoại quốc đứng xếp hàng dài, đối diện với các đồng bào đang nghiêm chỉnh đứng theo từng khu của họ.
Lá quốc kỳ bay phất phơ trông đẹp vô cùng nhưng nơi đây các dãy nhà san sát che tứ phía nên đứng gió khiến cho cờ không được oai hùng như đang tung bay trên các đồn lính tại quê nhà.
Giây phút thiêng liêng nhất là lúc hàng ngàn người cùng đồng thanh ca bản Việt Nam, Việt Nam thật oai hùng và cảm động khiến tôi nghe tê điếng cả người. Sau đó đại diện các phái đoàn ra bày tỏ đôi chút ý kiến. Rồi đến trưởng ban tổ chức trại ra tóm tắt sinh hoạt của tuần vừa qua : bao nhiêu thư nhận được, mấy ngàn thư gửi đi ; bao nhiêu người đã sanh, đã bị trộm cướp. Hay ra hầu tòa (trại có tòa, bót riêng do người Việt Nam điều khiển để xử các bị can như trộm cướp, đánh lộn, nhưng cũng để khiển trách “vài chị em ta” thiếu kín đáo có thể làm cho người ngoại quốc khinh rẻ người Việt).
Sau đó tôi đi dùng điểm tâm lần cuối ở trại. Buồn quá nên đi ăn mì và uống cà phê sữa một mình chứ không rủ đông đảo bạn bè như mọi sáng. Một số anh em đến chúc tôi thượng lộ bình an và nhớ trao giùm thơ từ cho thân nhân ở Âu Mỹ (phần tôi lãnh gần hai trăm thư ; Thiện và Catherine đâu cũng ba trăm).
– Bác sĩ ráng về giải phóng đất nước, chúng tôi xin tình nguyện đi theo !
Tôi ngẩng đầu lên trông thấy một nhóm thanh niên khá tốt tướng. Một anh nói tiếp :
– Bất cứ lúc nào, tôi cũng sẵn sàng theo lời kêu gọi cứu quốc của bác sĩ !
Một em khác, trẻ hơn nên quá khích, thêm vào :
– Giết cộng sản xong, mình sẽ đi đòi nợ máu tụi Thái Lan !
Tôi gật đầu lấy lệ, chẳng biết trả lời sao.
Sống ở đời, nhất là trong thế cô độc ở trại tỵ nạn, ai cũng cần bám vào một lẽ sống, một lý tưởng, để cho thời gian và không gian đỡ đè nén tâm linh, nên tôi không nỡ đem lý trí ra trình bày rằng tình hình chánh trị xừ Việt Nam không tùy thuộc ở tôi.
Tàu hụ còi, tiếng còi vang dội vào núi rừng nghe thật não nùng, tựa như con thú bị thương gào thét. Máy tàu từ từ nhịp mau hơn như muốn sớm dứt khoát với sự quyến luyến, nỗi sầu nhớ muôn bề. Vài phút sau, tôi cố lấy can đảm nhìn lại hải cảng Puerto Princesa lần chót. Mặt trời rực đỏ khởi sự lặn sau núi đèo. Bầy chim hải âu bay theo như muốn tiễn chúng tôi đến khỏi vịnh… Suốt bốn ngày, trên đường về Singapore, tôi có cảm tưởng như đang sống ngược lại thời gian. Mỗi bước đi trên tàu Goelo, tôi vẫn… như nghe thấy đồng bào tôi vẫn còn ở trên tàu. Trên bậc thang này vẫn còn một thiếu nữ ngồi khóc cha đang bị cải tạo, dựa cột kia vẫn còn một thanh niên ôn lại bài học sinh ngữ. Nằm trên mui hầm tàu các cụ già vẫn còn bàn chánh trị, cầu mong phục quốc quân sớm thành công… Mãi đến nay, nhiều đêm tôi vẫn còn nghe còi tàu Goelo hụ trong giấc mơ và bao nhiêu kỷ niệm dập dồn trở lại trong tâm trí làm tôi xót xa vô cùng cho số phận của người tỵ nạn Việt Nam.
Vẫn còn 350.000 đồng bào sống tập trung ở các trại tù Đông Nam Á, nhất là ở Thái, sự đối đãi thật là khốn kiếp nếu không muốn nói là vô nhân đạo, khi họ dùng một số trại tù dọc biên giới với Cao Miên để đỡ đạn các đợt tấn công của cộng sản Việt Nam vào đất Thái.
Vẫn còn vài ngàn người vượt biển đi tìm Tự Do mỗi tháng và bọn hải tặc Thái càng ngày càng lộng hành… Tôi còn nhớ trên đường về Singapore, gặp nhiều ghe Thái ngoài biển. Họ không nổ máy chạy như lúc trước nữa (vì đã nhận ra tàu Goelo và hay tin Cap Anamur đã về bờ). Nhờ thế tàu chúng tôi đi ngang rất gần và có thể thấy rõ ràng chúng khinh người đến mức không cần hóa trang thành thuyền đánh cá (thả lưới) mà chỉ câu cá bằng cần câu tre hay đánh bài trong khi chờ đợi… (thuyền tỵ nạn ra để cướp).
VVM.18.04.2025.-VA & NVA.
Chương 4: Vớt xong về bờ
Các thuyền nhân được chăm sóc và đưa ra phía trước, chứ không được xuống hầm liền, sợ lây ghẻ. Sau vài phút phục hồi lại sức khỏe, đa số quỳ xuống hát những bài thánh ca nghe não lòng. Tôi hỏi đùa :
– Gì dữ vậy ? Đợi chủ nhật hát không được sao ?
Một cụ già đáp lại :
– Bác sĩ biết không… trên ghe hết lương thực, chỉ còn bốn ký gạo nấu cháo cầm bụng cho tài công và trẻ con, xăng nhớt cũng gần hết vì trôi đã gần một tuần rồi. Hôm qua ghe bắt đầu vô nước, chúng tôi tuyệt vọng đã đọc kinh cầu hồn. Giờ được vớt, chúng tôi như hồi sinh nên cám ơn Ơn Trên.
Tôi hỏi chủ ghe :
– Bao nhiêu người tất cả vậy anh ?
– Dạ, không biết. Tụi nó đi hôi (lậu) đông lắm. Chỉ có sáu chục người trả tiền hà !
– Vậy cũng đủ giàu rồi ?
– Bác sĩ nghĩ coi, mổi người trả hai lượng vàng, mà chiếc ghe đã tốn gần một trăm lượng tiền đóng máy ghe, thuế má này nọ luôn.
Tôi đếm được một trăm lẻ một đầu, phần đông là thanh thiếu niên. Họ có vẻ không quen biết nhau nhiều ; tôi e sẽ khó “cai trị“, vì dù sao một đại gia đình cũng dễ bảo nhau hơn là hai anh em hay đôi uyên ương.
Từng nhóm tám người được đưa xuống phòng tắm. Đó chỉ là bốn thùng cây đơn sơ với tấm bố làm màn. Áo quần của những thuyền nhân được để qua một bên. Sau khi xịt nước với ống vòi “chữa lửa“ cho ra nhớt dơ, chúng tôi thoa lên họ thuốc trị ghẻ, để cho khô mới phát quần áo xin được.
Rất nhiều vấn đề phức tạp hiện ra : lúc đứng cho ráo người thì không có gì che, chúng tôi phải làm việc nhanh vì trời bắt đầu tối ; ngoài ra áo quần xin được phần đông là của phụ nữ nên các thanh niên phải mặc quần tím, hồng đỏ… Những người tắm chót thì phải mang “jupe“ hay áo cổ viền reng trông thật buồn cười (nhưng không dám cười !).
Sự chống đối của thuyền nhân lên tột bực khi các bác sĩ Tây định “thủ tiêu“ áo quần họ mang theo. Tôi hết sức cản lại, nói rằng biết đâu họ có giấu tiền bạc dưới cổ áo, khuy nút hay các nơi đặc biệt trong áo quần. Patrick mỉa mai tôi, xé vài áo ra cho coi là chẳng có gì trong đó. Mấy người Pháp sợ cả tàu bị lây ghẻ nên nhất quyết không cho người tỵ nạn đụng vào áo quần cũ. Patrick biện luận :
– Tôi bắt đầu thấy ngứa tay chân rồi, thế nào ghẻ cũng lây.
– Vậy hả ? – những người kia hỏi.
Không đầy vài phút sau, họ cũng bắt đầu gãi… Cãi vả một hồi, tụi nó mới hứa đem áo quần ra sau tàu để giặt, rồi sẽ hoàn lại. Ngờ đâu để mãi không đứa nào chịu giặt, mùi hôi càng ngày càng nồng, thủy thủ đoàn đem vứt xuống biển một đêm nọ.
Vài ngày sau, các thuyền nhân đòi lấy áo quần lại, không có, đâm ra bất mãn chửi bới om sòm. Tôi thông cảm họ nên không giận, chỉ buồn vì không có tiếng nói với bạn trong hội đoàn. Đã bảo loại ghẻ này không lây, nhưng vì tôi là bác sĩ trẻ tuổi nhất trong hội nên đàn anh cho rằng tại tôi thiếu kinh nghiệm (dù rằng tôi chuyên về bệnh xứ nóng và nghèo).
Đời thật mỉa mai, phải chăng là nợ số : thoát khỏi bọn hải tặc Thái lại bị “bác sĩ cướp lấy nữ trang, tiên bạc rồi thủ tiêu dấu tích“. Tiếc rằng tôi đã cản không cho quăng áo quần lúc vừa tắm xong, ít ra mọi người đều thấy không có ai lục soạn đồ đạc và tôi không bị mang tiếng !
Ngày qua ngày, sự va chạm giữa bốn trăm năm mươi thuyền nhân xảy ra rất thường xuyên : những thuyền nhân biết điều, biết tự trọng, biết nhường nhịn không thiếu nhưng họ im lặng quá. Trái lại sự cãi vả, đánh lộn, thanh toán nhau vì kẻ này đi “hôi”, cánh “Tám Đen” hay “Bảy Nghé” gì đó đưa tiền chưa đủ… thì ầm ầm suốt ngày. Một anh nọ đi cầu làm rớt tiền trong ấy, đến khi nhớ ra liến chạy vào “hỏi giấy” một đồng hương đang ngồi trong cầu ! Đôi khi ban trật tự phải dàn xếp bằng vũ lực. Tôi vô cùng mệt mỏi vì không có chỗ nghỉ ngơi. Làm việc từ sáu giờ sáng đến mười hai giờ đêm vẫn chưa được yên. Vì tàu chỉ có ba nồi cơm điện và hai bếp ga, nên cho đến mười hai giờ khuya vẫn còn có người đang nấu cơm trách móc nhau ồn ào về gạo ít gạo nhiều, muối, tỏi, vân vân… Sáng sớm sáu giờ đã tranh nhau cái bếp để nấu cháo ăn lót lòng.
Những đề nghị của người tỵ nạn như xin năm lít nước ngọt cho mỗi người thay vì chỉ ba… tôi chuyển lại cho các bạn trong hội đoàn thì bị chỉ trích là “vô trách nhiệm” hay “thiên vị quá đáng”. Ngược lại, khi tôi trình bày cho đồng bào nghe quyết định của hội đoàn thì bị lên án là “không hết lòng giúp…”. Ngoài ra những vụ vào kho để lấy trộm thức ăn cũng khiến tôi xấu hổ vô cùng cho dân Việt Nam. Kouchner ra thông cáo : “Bất cứ ai bị bắt đang lấy đồ đạc hay lục lạo trong phòng sẽ bị cấm nhận giấy nhập cảnh vào Pháp”. Biện pháp ấy chẳng ngăn được sự việc này. Nhiều đêm giông tố tàu lắc “nhử tử”, dù cửa sắt hành lang đã đóng lại, các thủy thủ vẫn bắt gặp trộm. Họ có rượt theo nhưng không kịp. Ông thợ máy già than thở cùng tôi :
– Dân anh dẻo như khỉ, tưởng tượng đêm qua bão như thế mà nó nhảy qua hông tàu, đu ngang cửa sắt hành lang. Rủi nó té thì làm sao ? Thời gian tôi mở cửa sắt là nó đã chạy xuống hầm rồi.
Tôi hỏi :
– Ông nhớ mặt anh ta không . Chỉ tôi xem.
– Mấy anh, người nào cũng mắt híp hết.
Sau đó tôi dùng kế mua chuộc (cho thuốc hút và bia lạnh) dể tìm ra thủ phạm. Tên tuổi những “phe nhỏ” được tố cáo nhưng tôi biết đây chỉ là mồi nhỏ mà thôi nên không đưa danh sách cho Kouchner trừng trị. Dù sao cũng tội nghiệp cho tương lai học vấn của các em nếu phải bị “tù đày chung thân” (không được chấp nhận định cư) ở trại tỵ nạn chỉ vì tội ăn cắp vài hộp thịt hộp hay vài lon bia. Máy chụp hình, giấy tờ và sách vở thì không mất.
Chúng tôi hẹn gặp tàu hải quân Balny ngày mai để xin nước ngọt vì tàu Goelo sắp cạn vừa nước ngọt vừa lương thực (dân tỵ nạn tắm và giặt đồ với nước uống). Nếu kể luôn số gạo bị mất thì tính ra mỗi đầu người ăn đến một ký hai trăm gờ ram mỗi ngày thay vì bốn trăm gờ ram mỗi đầu người như dự định.
Tôi rất lo lắng đến sự hỗn độn vào ngày mai khi được biết tàu Balny sẽ nhận lại tám mươi người cho đủ số một trăm năm mươi người mà Singapore cho phép Balny đem vào. Số còn lại sẽ theo tàu Goelo đi Phi Luật Tân.
Đêm nay sự lo âu pha lẩn với nỗi buồn uất ức của kẻ mất nước. Nhìn đèn tàu Nga ra vào Sài Gòn lòng tôi căm hờn tột bực bọn người buôn dân, bán đứng tuổi trẻ của nửa triệu thanh niên Việt Nam sang Tây Bá Lợi Á. Một ý nghĩ điên cuồng bỗng nảy ra làm tôi hài lòng phần nào vì có thể thực hiện được (Goelo chỉ cách Sài Gòn sáu mươi hải lý). Chuyến đi kỳ sau, tôi sẽ cố mua vài vũ khí như lựu đạn và lén ban đêm lấy chiếc zodiac của hội (loại ca-nô của quân đội, chạy rất nhanh để rượt cướp Thái) khi tàu trở lại ngang Sài Gòn, tôi sẽ lái vào hải cảng quăng lên tàu Nga mỗi chiếc một quả lụu đạn rồi “vọt” trở ra khơi, đợi Goelo trở về từ Cam Ranh vớt lên. Tôi khoái chí mỉm cười rất lâu khiến anh thủy thủ gác chung tưởng đang nghĩ chuyện chơi bời nên trêu chọc :
– Nhớ vợ hả bác sĩ ? Sắp trở về bờ rồi, ráng đi. Tôi sẽ dẫn đi “thăm” mấy “em Phi”.
Tôi không đính chánh làm gì, bí mật quân sự mà ! Tôi tin chắc chuyện đó làm được : tấn công ban đêm, trên một chiếc zodiac nhỏ chạy nhanh và dễ “lạng”. Tiếc thay, máu anh hùng mau nguội vì chợt nhớ ra là tôi không biết bơi và rất sợ cá mập. Rủi bị thương té xuống biển thì… chắc đứt tim chết trước khi cá mập đến “hỏi thăm sức khỏe”.
Sáng hôm sau , trời ui ui như cùng chia buồn trước cảnh biệt lưu ý : hai tàu Balny và Goelo thả neo gần nhau để tiện việc bơm nước. Các thuyền nhân xôn xao bàn tán đoán xem ai sẽ được chuyển sang tàu hải quân, và tỏ vẻ lo lắng rủi ro còn bị “kẹt” lại Goelo thì phải chịu lênh đênh thêm bao lâu nữa ? Nhiều người níu tôi lại hỏi, nài nĩ vận động cho họ được qua Balny. Tôi chỉ trả lời : “Sẽ rút thăm chứ tôi không giúp riêng ai được !”.
Đến giờ, mỗi lá thăm được rút ra (tính theo gia đình) là mỗi lần gây cảm xúc mạnh. Mặt mày hớn hở, nhảy la, chạy xuống hầm lấy hành trang… Những người tốt phước ấy vui mừng còn hơn trúng số độc đắc. Lá thăm cuối cùng rất là hỗn độn : một số người giả bộ xô đẩy rồi trà trộn vào đám người được đi chính thức khiến tôi đau đớn nhớ đến cảnh loạn ngày 30 tháng 4 năm 1975 trước tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn. Balny phái thêm lính hải quân qua Goelo giữ giúp trật tự, giăng dây ra ngăn lại một bên tàu, rồi kiểm soát lý lịch từng người trước khi cho xuống ca nô.
Quá chướng ta mắt, tôi bỏ vào đi tắm cho nguôi giận. Đành rằng ăn uống trên Goelo rất cực khổ, mỗi bữa cơm chỉ có một con cá mòi và chút đỉnh canh chan vào cơm trắng, nhưng chịu đựng thêm vài ngày có chết đâu ? Vả lại không làm buồn lòng những người đã bỏ việc làm, gia đình và sự yên vui để đi công tác. Họ có ý muốn chia sẻ khổ cực với dân nước mình mà thái độ này giống như xem họ là loài quỷ đỏ hiếp hại dân lành lắm nên phải cấp tốc xa lánh bằng mọi cách.
Tôi rất cảm động và bớt xấu hổ khi nghe chị dược sĩ Long Hầu xin tình nguyện ở lại Goelo để phụ giúp chúng tôi, nhưng Kouchner không chịu tuy ông rất cảm động cử chỉ đẹp và đầy ơn nghĩa này. Riêng tôi cũng mừng giùm chị được về trước (để hai cháu gái tựu trường cho kịp niên học tới), tuy rất buồn vì mất đi một người phụ giúp đắc lực và một người bạn tâm sự.
Khi trở ra tiễn bác sĩ Kouchner và phái đoàn báo chí qua Balny về Singapore trước, tôi vẩn còn thấy nhiều người gào khóc… đến ói ra lãi đũa trên boong tàu. Tôi làm lơ như không thấy chi. Một bà nọ kêu tôi vừa khóc vừa chỉ đứa cháu gái :
– Bác sĩ cứu giùm dì cháu chúng tôi… cho qua Balny đi, kìa bác sĩ nhìn đi (tay bà chỉ con lãi đũa hơn hai mươi phân đang giãy dụa trên boong tàu), cháu tôi nó đau sắp chết rồi, mới ói ra lãi đấy !
Lòng tôi buồn bã lạ thường khi ôm các bạn đồng nghiệp chào họ trước khi chia tay tưởng như không còn gặp lại họ nữa ! Cảnh chia lưu ý giữa biển mông mênh có cái gì thật bi thảm khó tả. Còi tàu hụ làm tê tái cả lòng tôi. Dần dần hình dạng Balny biến mất trong sương mù để rồi chỉ còn nghe một tiếng còi dài cuối cùng vang ra.
Tôi cảm thấy bơ vơ, vì chỉ còn lại vài người trong hội đoàn và một số người tỵ nạn mà tôi không hạp gì cho mấy. Có một anh chàng mà các bạn tỵ nạn khác gọi là “đĩ già” vì là một cựu tỉnh trưởng quen thói “hào hoa phong nhã”, sang trọng, hay gớm hay chê này nọ trên tàu. Bầu không khí bữa cơm chiều thật sầu thảm như có tang. Không ai nói chuyện, chỉ nhìn nhau như muốn hỏi : “Mày cũng buồn nữa hả ?”.
Tôi hồi nhớ lại thảm cảnh em bé gái mười bốn tuổi, bị bọn hải tặc hãm hiếp rồi bắt cóc cùng mười hai thiếu nữ khác. Tàu Cap Anamur bắt gặp và rượt theo. Nhắm thoát không khỏi và sợ bị đụng chìm, bọn cướp Thái xô từng người tỵ nạn xuống biển để Cap Anamur ngưng lại vớt. Tám cô được cứu vớt ; bốn người còn lại, trong đó có em bé gái mười bốn tuổi kia, chết đuối vì quá kiệt sức sau mấy ngày bị hãm hiếp tập thể nên không còn sức để bơi.
Những ngày cuối cùng trên tàu, trước khi về Phi Luật Tân, ai nấy đều vui cười khiến tôi cũng thoải mái phần nào, nhất là khi nhìn vài người tỵ nạn phụ thủy thủ đoàn sơn lại chiếc tàu “tình thương”. Sau cơm chiều, tôi hay ra ngồi trên lui hầm tàu, bàn chuyện với anh em về cuộc sống bên Pháp, chương trình học vấn, trợ cấp chánh phủ… Tình đồng hương thật đậm đà, anh em rù rì chuyện trò đội khi đến rất khuya. Một anh mời tôi điếu thuốc hiệu “Đà Lạt” ; tuy bên nhà chưa hút loại thuốc này, tôi nhận món quà quý giá đó.
Gió mát thổi hiu hiu, tôi kéo mạnh một hơi và giữ lấy hương khói khá lâu trong lòng ngực, như cố giữ mùi vị thơm ngon của quê hương. Tôi ngẩng đầu lên nhìm vòm trăng sáng, phì mạnh ra như trút đi nỗi bất mãn của người bị lưu đày, như muốn hỏi chị Hằng :
– Chừng nào chúng tôi sẽ trở lại quê nhà ?
Lúc đó bài hát Thương hoài ngàn năm trở lại trong tâm trí, khiến tôi tê tái cả lòng :
Trăng khuyết rồi cũng khi đầy
Xa cách rồi cũng xum vầy
Mây bay, bay hoài ngàn năm…
Không phải để tìm lại người tình xưa hay người bạn cũ nhưng là một hình bóng huyền diệu thiêng liêng tai không nghe, mắt không thấy được nhưng chỉ có tâm tư mới nhận diện được khi đặt chân trở lại đất nước thân yêu.
Đến hải cảng Puerto Princesa, đảo Palawam vào một buổi sáng chủ nhật âm u, lòng tôi lại càng bùi ngùi trước giờ lưu ý biệt. Hải quân Phi ra đón tàu Goelo đậu trước vịnh, lên kiểm kê giấy nhập cảnh và lục soát các thuyền nhân xem có đem súng ống, cần sa hay ma túy… may mà họ không mang máy radar rà súng vì có người đến cho tôi hay ông chủ ghe nọ có chôn cây súng lục (dưới tấm ván chõi- ông ngủ) nên tôi định đợi dịp tàu trở ra khỏi đảo lén lấy dùng lúc hữu dụng. Tôi vẫn nghĩ rượt theo cướp Thái mà không mang súng giống như đi tay không vào hang cọp, nhưng các bạn Pháp vẫn từ chối mọi hình thức bạo động. Họ chỉ muốn thuyết phục mà thôi. Nhờ hải quân Phi lục soát kỹ mà hội lấy lại được vài chục ký gạo và vài trăm muỗng, đĩa và dao.
Từng hàng hai, anh em đến chúc chúng tôi thượng lộ bình an, cám ơn đôi. lời. Có người lại cố vấn thêm :
– Chúc bác sĩ kiếm được việc làm ở chỗ khác tốt và đỡ mệt hơn !
Tôi nhớ mãi hình bóng duyên dáng một thiếu nữ đến gặp tôi, lúng túng nói :
– Dạ thưa bác sĩ, vì đã vượt biên hụt bao lần nên em không còn gì để biếu… Vậy xin bác sĩ vui lòng nhận kỷ niệm này…
Vừa dứt lời, cọ vội vàng xuống ghe. Thắc mắc, tôi mở gói quà ra : một hộp thuốc ngừa thai dùng chưa hết và đôi dòng tâm sự.
Sau này tôi được biết phần đông các thiếu nữ vượt biển “lo xa” nên đều uống thuốc ngừa thai trước khi lên ghe. Phải chăng đó là giá phải trả để đi tìm tự do ?
Khi mọi người đã xuống ghe (do Cao Ủy Tỵ Nạn mướn để ra tàu đón thuyền nhân vào bờ, với sự cộng tác của các thanh niên hướng đạo ở trại), bạn “đĩ già” của tôi muốn huy hoàng phút chót nên lật đật sửa soạn áo quần rồi làm diễn văn nói chuyện vòng vo tam quốc. Đến khi mượn tôi dịch ra Pháp ngữ, tôi chỉ “thu lại” thành một lời chúc gọn gàng và thành thật : “Chúc mọi người sớm được đoàn tụ gia đình và an hưởng một cuộc sống mới đúng như sự mong muốn tự bao giờ !” nên anh ta tức lắm.
Thuyền nổ máy làm tan sự yên lặng sững sốt của mọi người như đang tự hỏi : “Tôi có đang mơ hay không khi nghe những chữ đoàn tụ, an hưởng… những chữ đó trước đây thật xa vời nhưng nay sẽ trở thành sự thật hữu hình.
Dẩn dần những cánh tay giơ lên ngoắt chào chúng tôi, một số thanh niên hăng máu hơn đã hét lớn :
– Hoan hô anh Hiển, cám ơn anh Hiển !
Tôi rất cảm động. Buồn cười là cô y tá nói nhỏ với Patrick :
– Họ cũng biết ơn mình quá chứ !
– “Toa” không biết chứ, hồi thời Ile de Lumière mấy người Việt Nam biết điều hơn mấy người này nhiều. Tôi còn nhớ lúc đó áo quần dơ của tôi, mấy người tỵ nạn dành nhau xin giặt để trả ơn… (Patrick thở dài luyến tiếc thời “vàng son”).
Cô y tá quay qua tôi, hỏi :
– Sao, hôm rày thấy anh “friendly” (thân) với họ lắm, có chuyện gì hấp dẫn (với nghĩa bi đát, đáng thương) kể cho tôi nghe vì tôi về Thụy Sĩ sẽ lên “tivi” kêu gọi xin tiền cho “boat people” !
Tôi im lặng. Sống trên tàu bốn tuần nay với hơn bốn trăm người tỵ nạn
bần cùng trong miếng ăn, giấc ngủ, chưa thấy phải là chuyện đáng thương tâm sao cô ơi ?
Chương 5: Về trại Palawan lần cuối Tháng bảy bão lớn, gió đôi khi thổi tắt bếp gaz, sóng lắc đổ cả nồi chén nên chúng tôi phải phát bánh lạt muối và chút đỉnh mứt cho các thiuyên nhân ăn dằn bụng. Mai trở lại trại, niềm vui hiện rõ lên mặt mỗi người lẫn với nỗi buồn man mác trước ngày chia tay. Kỳ này chỉ vớt được một trăm hai mươi người nên có phần gần gũi hơn là với những nhóm trước. Chiều chiều, chúng tôi hay tổ chức cho từng toán mười người đi viếng từ phòng này đến phòng lái, sau cùng vào phòng ăn dùng cà phê, trà, bánh, nghe nhạc (máy chúng tôi mới mua ở Singapore sau này). Những người đứng tuổi rất cảm động nghe lại những bản nhạc Việt Nam xưa, lim dim thả hồn về kỷ niệm yêu dấu của khoảng đời đầm ấm cùng gia đình xum họp dưới một mái nhà; Hơn một người đã thầm khóc với bản “Thôi” nức nở của Thái Thanh. Đám trẻ lại say mê nhạc “ngụy”; bậm môi nhịp đùi với những bản khích động nhạc của Led Zeppelin hay khoan khóai hít hà theo nhịp điệu du dương của nhạc “xì lô” Mỹ. Lúc ra về, một em hỏi tôi : – Bên Tây đi phòng trà mắc không anh ? Tôi mỉm cười trả lời lại : – Lo để dành tiền giúp gia đình bên nhà đi chớ ! Thật ra chính chế độ “xã hội chủ nghĩa” hiện tại (hay nói nôm na ra là chế độ cộng sản) mới đáng trách vì chính sách ngu dân của họ, gò bó, cưỡng ép tuổi mộng mơ của các em vào những “công tác xã hội” hay đẩy các em vào con đường phải tìm kế sinh nhai quá vất vả để rồi tuổi trẻ này bỏ nước ra đi, chỉ mang theo những kỷ niệm riêng của gia đình chứ không có được những gì đẹp về nền văn hóa Việt Nam nói riêng và đất nước nói chung. Sung sướng nhất là các em nhỏ : ngoài chuyện ông đầu bếp đem kẹo và làm bánh cho mỗi chiều, các em còn được tắm “piscine”. Tháng này chúng tôi đã vớt được ba chiếc ca nô cao su lớn (loại cấp cứu) của một tàu buôn Panama mới bị bão đánh chìm. Thủy thủ đoàn tàu chìm này đã được một chiếc tàu khác tới trước vớt lên. Cả ba chiếc ca nô được giăng lên mui hầm tàu Goelo và được bơm nước biển vào để làm hồ tắm công cộng. Trong hầm còn chỗ trống nên thuyền trưởng cho phép mở bàn đánh ping pong để cho các thanh niên Việt Nam huấn luyện các bạn Pháp. Tôi ít ưa chơi môn thể thao này vì nóng tánh, hay xì nẹt, nhứt là bị “bỏ nhỏ”, muốn phóng lại phía kia đỡ banh mà sóng lắc mạnh phía nọ làm chân bị “dính” vào đất, lại vói tay không tới nên thua hoài. Tóm tắt sinh hoạt trên tàu không thua gì trại hè. Tối, tôi hay mang đàn Tây Ban Cầm ra cho các anh em muốn giúp vui văn nghệ. Tôi mua lại của các thủy thủ vài chai bia và whisky, còn ban ẩm thực lo chấy tôm khô với chút tỏi ớt làm “mồi” nhậu lai rai. Tuyệt vời ! Không một phòng trà nào có thể tạo lại bầu không khí đó, dù cho có rượu ngon, món ăn quý hơn và ca sĩ tài hơn. Rất giản dị, chúng tôi ngồi trên boong tàu phía trước. Gió mát, trăng sao rất hữu tình. Sóng nhè nhẹ nhịp theo tiếng hát êm dịu hay câu thơ ngậm ngùi làm hồn khoan khoái với men rượu và vị khô mặn cay. Sáng hôm sau đến hải cảng. Như thường lệ, hải quân Phi Luật Tân lên tàu trước để làm thủ tục nhập cảnh. Như mọi khi, thùng quà biếu (thuốc lá Mỹ và whisky) cũng đã sẵn sàng để cám ơn sự sốt sắng của các “ngài” đã chịu khó ra tàu sớm. Một viên thanh tra xin thêm báo “ấy” với nụ cười tủm tỉm và đôi mắt láo lia như ngại ngùng không dám nói ra chữ Playboy hay Penhouse, khiến tôi nhịn cười không được ! Tiếc rằng không có hình con trai ở truồng đem ra chọc hắn một phen. Một lát sau, thuyền lớn ra đón các thuyền nhân vào bờ. Tôi nhìn ra hình dáng quen thuộc của chị Anh Vân (trưởng ban hồ sơ) và của anh Hùng (trưởng ban trật tự) đi cùng các anh em hướng đạo ra đón và tiếp tay các đồng bào xuống ghe. Sau đó sẽ có xe vận tải chở về trại : “Mến chào các bạn đồng hương !”. Tiếng nói của anh Hùng qua loa phóng thanh khiến đồng bào tỵ nạn cảm động vô cùng. Lời chào của cộng đồng Việt Nam hải ngoại đã xoa dịu được phần nào những khổ nhọc sau bao ngày lênh đênh, lạc lõng giữa biển cả mênh mông. Chính tôi cũng cảm thấy phấn khởi khi nhìn thấy các thanh niên kia uy nghi trong y phục của ban tổ chức trại Palawan, với lá cờ vàng ba sọc đỏ bên tay phải áo. Ghe vừa neo vào tàu Goelo, các anh vội lên hỏi thăm ân cần đồng bào rồi mới xuống hầm nói chuyện về tổ chức cuộc sống ở trại, cách làm thủ tục xin định cư và sau đó trả lời những thắc mắc về cuộc sống mới. Xong cơm trưa, tôi nóng lòng đợi các bạn xuống ghe để vào thăm trại. Hải cảng Puerto Princesa thật là thơ mộng nhờ nằm trong vịnh với dãy núi trải dài phía sau. Đây đó nhấp nhô vài biệt thự mới. Đỉnh nhà thờ trắng nổi bật giữa các lều tre xập xụi, tương tự như một làng Việt Nam khiến tôi bồi hồi tưởng như sắp đặt chân lại trên quê hương. Ghe tấp vào bến. Chủ thuyền đặt xuống một tấm ván nhỏ làm thang lúc lắc… rồi từng người nín thở cố bước đi thật khéo. Người nào thành công đến chốn an toàn được các bạn vỗ tay khen ngợi. Dân địa phương cũng cười xòa trước sự vụng về của chúng tôi. Sau đó chúng tôi lấy xe lam, từng nhóm ba người để đến trại : đây chỉ là xe máy dầu (Honda) gắn vào một thùng có bảy chỗ ngồi. Nếu quen với chú tài xế thì được ngồi chỗ ôm phía sau… êm hơn ! Bên ngoài xe thì sơn đủ màu tím, đỏ… coi rất vui mắt. Mỗi xe đều có tên một nữ tài tử xi nê như là Ursula, Jane, vân vân… thật là buồn cười. Trại tỵ nạn nằm cách xa bến cũng hơn mười cây số. Trên đường đi chúng tôi gặp một Phái Đoàn Tỵ Nạn (bốn trăm người) ra hải cảng đi trại Bataan để chuẩn bị lấy phi cơ đi Hoa Kỳ và Úc. Họ vui mừng chào và vẫy tay theo chúng tôi. Tỉnh này nghèo, khoảng mười lăm ngàn dân, sống nhờ vào sự hiện diện của năm ngàn người tỵ nạn trên đảo, nhất là nhóm xe lam chở người Việt ra vào thành phố hay ra hải cảng (giá lúc nào cũng đắt hơn vì họ biết mấy người này sắp được đi định cư nên “vui tánh và rộng rãi hơn”). Trại tỵ nạn rất là thoải mái, ra vào tự do, chỉ đóng cổng từ lúc mười giờ tối đến sáng sớm thôi. Đến trước cổng trại, một số đông thuyền nhân cũ, đã được tàu Goelo đưa đến trước, ra đón chào chúng tôi một cách thân ái và cảm động. Tôi nhận ra mang máng vài khuôn mặt vì hầu hết đều lên cân rất nhiều… vài người đã cạo đầu để giữ lời hứa đã khấn vái trước khi ra đi. Đớ là chưa kể sự thay đổi của các cô, các bà, ai cũng cao lên nhờ những đôi giầy cao gót kiểu mới, hồng hào son phấn như đầm lai trong bộ jeans bó người. Nhiều cô tiến bộ mau hơn đã bắt đầu tập hút thuốc. Rồi đây “toa moa” được vài câu là các cậu sinh viên du học ngày xưa sẽ tha hồ làm thơ, thả hồn theo trăng gió ! Anh em gặp lại hỏi nhau sức khỏe và việc định cư. Một em bé khoe với tôi : – Ở đây ăn uống đúng “tiêu chuẩn” lắm bác sĩ ơi ! Có cá tươi, thịt heo và trái cây nữa ! Một anh chặn lại : – Xạo mày ! Bác sĩ biết không tại nó láu cá ; thấy nó còn nhỏ không ai rầy la nên nó “lương” (ăn cắp) đồ nhiều hơn. Anh em cười xòa rồi tôi theo các bạn về “nhà”. Trại được chia làm chín khu, chứa khoảng tử bốn đến năm ngàn người. Có khu gồm những nhà công cộng lớn cho những người mới tới. Mỗi căn làm bằng cây với nóc nhà rơm, bên trong phân chia bởi một đường đi giữa ; hai bên hành lang ấy là hai dãy phòng rộng mỗi gian hai thước. Cứ bốn người được phát một phòng, hai người ngủ ở dưới, hai người ngủ ở gác trên. Để dễ diễn tả hơn thì cứ tưởng tượng như vào… chuồng ngựa ! Phía sau là một dãy bếp công cộng với những lò đất. Các bà, các cô đang “hầu ông táo”, thấy tôi vào vội đứng dậy bẩm thưa làm tôi ngại vô cùng. – Trời ơi, sao bác sĩ ốm quá vậy ? Tôi mỉm cười : – Tại mấy chị mập ra đấy chứ ! Mọi người cườì ầm ĩ làm cho giây phút gặp lại nhộn nhịp, vui tươi và khó quên. Còn mấy cu tí thì khóc inh ỏi khi mấy má bảo : – Ra thưa bác sĩ đi chứ ! Đâu có chích đâu mà sợ ! Sau đó chị Ánh Vân đến dẫn tôi đi viếng trại. Tôi có cảm tưởng như đang về thăm thôn quê Việt Nam với những hẽm nhỏ bùn trơn đá gồ ghề, với những chòi tranh hai bên và hàng ghế tre trước cửa, lu nước sau nhà. Đó đây vài đám thanh niên đánh bài “cắt tê” cho qua thì giờ. Một anh nhìn tướng tá đen đúa và bộ tóc quăn dài của tôi rồi ngạc nhiên bảo các bạn : – Bữa nay sao có thằng Phi này vào trại ? (Trại này có đặc điểm là hoàn toàn tự trị, lính Phi chỉ gác cổng và chỉ được quyền vào trại khi nào banh trật tự trại, toàn là người Việt, mời vào). – Chắc có đánh lộn lớn ? – một anh khác vừa trả lời vừa chưng “tẩy”. Tôi mỉm cười trong bụng, bước tới gần sòng bài, nói : “Mấy anh mạnh giỏi ?” khiến một anh hết vía la lên : – Trời đất ! Thằng Phi này nói tiếng Việt bỏ dấu hay quá ! Chị Ánh Vân can vào : – Phi nào mà bỏ dấu Việt ngữ giỏi vậy ? Bác sĩ Việt Nam của tàu Goelo đó ! Thăm hỏi đôi lời rồi tôi đến xem lò bánh mì, lò làm bún : các công nhân là người tỵ nạn, tình nguyện giúp trại ngoài giờ học sinh ngữ (chỉ được chút đỉnh tiền túi là hai mươi đô la mỗi tháng thôi). Đi ngang trường học, các trẻ em đang chăm chú học khiến tôi cảm phục ý chí bất khuất của đám mầm non nước Việt Nam sau này : trong hoàn cảnh thiếu thốn muôn điều, từ tinh thần đến vật chất, mà còn “xôi kinh nấu sử” không phải là điều đáng khen sao ? Qua đến lớp sinh ngữ, tôi rất ngạc nhiên nghe tiếng cười là hăng hắc. Té ra la Thiện (thông dịch viên) và cô y tá Catherine đang giảng bài và chỉ cách đọc cho rõ câu : “Le chasseur sachant chasser sans son chien”. Những âm “sờ” và “xờ” đảo lộn nhau tưng bừng, mỗi khi Thiện bắt lặp lại câu đó nhanh hơn… và càng nhanh hơn. Cuối cùng tôi vào câu lạc bộ ăn chiều. Các phái đoàn thường đến đây ăn uống ; tiền lời của quỹ được dùng vào việc bổ ích chung như in báo, văn nghệ hay mướn phim vidéo về chiếu ngoài trời mỗi tuần. Thấy tôi ăn mặc giống dân tỵ nạn với cái quần xà lỏn xanh của trại phát (một anh tỵ nạn cho lại) nên cô chạy bàn ngạc nhiên hỏi : – Mới đến đảo hả ? Với tàu Pháp ? – Dạ, hôm qua. Tôi ăn đĩa cơm rang Dương Châu quá ngon lành (vì lâu quá thèm đồ ăn Việt Nam) làm cô ta hỏi tiếp : – Trên tàu ăn uống cực lắm phải kế hoạch, nghe nói họ cho ăn ít lắm ! Tôi mỉm cười không trả lời. Lát sau, khi bưng trái soài ra, cô ấy xin lỗi (vì bà bếp mới cho biết tôi là “bác sĩ ” của phái đoàn trên tàu Pháp đó) : – Bác sĩ đừng giận em…Đâu ngờ bác sĩ trẻ quá vậy ! Phái đoàn trưởng và thuyền trưởng đề nghị ở tại đảo Palawan thêm ba ngày, để nghỉ và sửa chữa tàu chút đỉnh. Vả lại không có chi gấp vì lúc này trăng rằm sẽ không có thuyền vượt biển. Ai muốn đi đâu ăn ngủ đâu cũng được. Tôi, Thiện và Catherine vào trại ở, để “nếm mùi tỵ nạn” cho biết, nhưng ít khi đi chung. Hai người kia thích đi cùng các bạn tỵ nạn mà họ đã săn sóc, còn tôi muốn tìm hiểu sâu xa hơn cuộc sống ở trại này, nên tách đi riêng, để có thì giờ nghe lời tâm sự của người đồng hương. Mỗi hẻm, tôi cố đến gặp gỡ một số đồng bào. Đâu đâu ai cũng nồng hậu đón tiếp (khui bánh Tây, mời thuốc lá Mỹ, lăng xăng đi mua nước đá dừa Xiêm, châm trà hay mời ở lại dùng cơm…) khiến tôi cảm động đến… cà lăm. Chỉ có vài người vẫn còn muốn “hỏi giấy” tôi. Một đêm nọ, một ông đi ngang “kênh” tôi bảo : – Nhường cho mày đó ! – Nhường cái gì chứ anh ? – tôi ngạc nhiên hỏi lại. – Thì con vợ tui đó. Lúc vượt biển đồng lòng đi Úc, bây giờ nó sanh chứng nộp đơn theo diện tàu Pháp vớt chứ không chịu xin đoàn tụ gia đình bên chồng ở Úc nữa. Thấy anh ta có vẻ say rượu, tôi không cãi lý cho mệt. Đến vài nhà khác, tôi cố giải quyết giùm vài vấn đề tìm thân nhân, giúp cách tìm hội bảo lãnh cho các em vị thành niên, chia sẻ những lo âu… Nhưng lắm lúc gặp nhiều thảm kịch khó giải quyết được. Một người đàn ông đến nắm vai tôi, mắt nhòa lệ : – Bây giờ chắc con tôi đẻ rồi hả bác sĩ ? Vợ tôi có thai bảy tháng, bị cướp Thái hãm hiếp rồi dẫn đi… cách đây hai tháng… (anh ngẩng mặt lên trời như muốn trách cứ vũ trụ tại sao ? rồi nói tiếp). Mà không biết nó có sao không ? Má nó bị đánh đập quá vì không chịu theo bọn hải tặc. Bác sĩ làm ơn lái tàu Goelo đến đảo Kra tìm vợ tôi… tôi đội ơn ! Một nhóm thanh niên nọ đến năn nỉ : – Bác sĩ thưa với phái đoàn làm ơn lên miền Trung vớt giùm bà con chúng tôi. Miền Trung khổ nhiều rồi, cầu mong bác sĩ cứu nạn. Miền Nam ghe còn có máy chứ chúng tôi vượt biên với thuyền buồm ! Tôi có đề nghị lại với thuyền trưởng là nên lên đến Đà Nẵng thử một lần. Goelo có đi một lần nhưng không gặp ghe nào nên lộ trình mới bị bãi bỏ. Thật sự muốn cho hữu hiệu và công bằng cho cả miền Nam và miền Trung thì phải có hai chiếc tàu chạy ngược nhau từ Cà Mau lên và từ Đà Nẵng xuống. Tối đến, tôi hay đi dạo quanh trại, nhìn trộm qua các khung cửa sổ mục nát xem đồng bào đang làm gì. Người thì viết thư tâm sự với bạn thân sống ở Âu Mỹ, người thì may áo quần thuê kiếm thêm chút vốn chờ ngày được định cư, người lại hát cho dịu nỗi lòng đớn đau trằn trọc suốt đêm dài… Hàng trăm cử chỉ của những người bị tình đời bạc đãi, của những người khắc khoải chờ đợi giấy định cư mà giấy phép ấy chẳng bao giờ đến khiến tôi xót thương vô cùng. Một hình ảnh rất khó quên xảy ra một đêm nọ, khi tôi đi dạo trại cùng một đám thiếu nhi. Đứa đi trước đứa chạy sau, đứa nắm tay khoe được lên lớp tựu trường năm nay, đứa khoe nhận được quà thân nhân gởi… tôi chợt chú ý một em bé không nói chi hết mà cứ nắm chặt tay tôi… như cố bám níu vào một lẽ sống. Ngạc nhiên, tôi dừng bước lại, vuốt tóc em hỏi : – Có chuyện gì buồn không em ? Em mếu môi khóc, bảo là nhớ ba quá. Tôi không dám hỏi thêm, sợ khơi lại niềm đau trong lòng bé nhưng trong tôi chợt xót xa và thắc mắc vô hạn. Ba em đâu rồi ? Em còn má hay anh chị em không ? Lần đầu tiên trong đời tôi biết được nỗi buồn đến không còn sức đứng vững nữa. Tôi vội ngồi xuống băng tre trước chùa, tâm phân vân tự hỏi không biết có bao nhiêu đứa trể mồ côi cha mẹ ở trại này ? Tiếng chuông mõ từ chùa vang ra càng làm lòng tôi tê tái đớn đau. Tôi quay đầu lại nhìn vào Niệm Phật Đường. Phật uy nghi ngồi nhìn đám con thơ đang gục đầu dưới vạn mối lo âu, đang cố van xin chút ân huệ. Tiếng tụng niệm đều đều khiến lòng tôi lắng dịu xuống. Bỗng nhiên tôi thấy buồn ngủ. Tôi muốn ngủ cho quên hết, cho không còn nghe thấy những thảm cảnh này nữa. Tôi về “chuồng ngựa” ngủ, mê man được một hồi khiến các người chung quanh tưởng tôi đi nhậu mới về, vì ngang trước cổng trại, phía bên kia đường, có những quán nhậu bình dân, thiên hạ có thể vào uống bia và nhảy đầm đến mười giờ tối. Giắc ngủ chập chờn với những đợt tấn công của muỗi và rệp. Tôi là nạn nhân thê thảm nhất của hai thứ này vì không có lãnh mền mùng như các đồng bào tỵ nạn. May phước, kế chỗ tôi nằm có anh bạn vừa buông tờ báo Tiền Phong xuống ngủ, tôi bèn lấy tờ báo làm quạt, quạt đỡ. Trong khi anh ấy ngủ thẳng giấc như một đứa trẻ thơ vừa được mẹ kể chuyện đời xưa, tôi chỉ chập chờn được đôi chút rồi không còn ngủ được nữa. Mười hai giờ khuya, tôi ra tháp tùng với các anh em ban trật tự để trò chuyện và đi “hành quân”. Khoảng năm mươi người tình nguyện, được chia làm từng nhóm năm người để đi khắp trại xem xét coi có kẻ trộm thừa giấc ngủ của dân lành mà cướp bóc không. Từng đoàn lặng lẽ di chuyển qua các hẽm sình lầy, tay cầm đèn pin để rọi tránh các khúc cây gãy trong trận mưa vừa qua, làm tôi vui thú tưởng tượng như đang đi trong bưng, lùng bắt cộng sản. Có một đêm chúng tôi rượt bắt trộm hơn một tiếng đồng hồ mà không được vì bọn nó đã tẩu thoát ra bãi biển và núp trong các bụi cây. Mỗi buổi sáng thứ hai mọi người đều dậy sớm để chào quốc kỳ lúc tám giờ. Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ được từ từ kéo lên bởi các anh chị em đại diện quân đội Việt Nam Cộng Hòa ngày xưa, với sự hiện diện của quân lực “đồng minh” Phi. Các phái đoàn ngoại quốc đứng xếp hàng dài, đối diện với các đồng bào đang nghiêm chỉnh đứng theo từng khu của họ. Lá quốc kỳ bay phất phơ trông đẹp vô cùng nhưng nơi đây các dãy nhà san sát che tứ phía nên đứng gió khiến cho cờ không được oai hùng như đang tung bay trên các đồn lính tại quê nhà. Giây phút thiêng liêng nhất là lúc hàng ngàn người cùng đồng thanh ca bản Việt Nam, Việt Nam thật oai hùng và cảm động khiến tôi nghe tê điếng cả người. Sau đó đại diện các phái đoàn ra bày tỏ đôi chút ý kiến. Rồi đến trưởng ban tổ chức trại ra tóm tắt sinh hoạt của tuần vừa qua : bao nhiêu thư nhận được, mấy ngàn thư gửi đi ; bao nhiêu người đã sanh, đã bị trộm cướp. Hay ra hầu tòa (trại có tòa, bót riêng do người Việt Nam điều khiển để xử các bị can như trộm cướp, đánh lộn, nhưng cũng để khiển trách “vài chị em ta” thiếu kín đáo có thể làm cho người ngoại quốc khinh rẻ người Việt). Sau đó tôi đi dùng điểm tâm lần cuối ở trại. Buồn quá nên đi ăn mì và uống cà phê sữa một mình chứ không rủ đông đảo bạn bè như mọi sáng. Một số anh em đến chúc tôi thượng lộ bình an và nhớ trao giùm thơ từ cho thân nhân ở Âu Mỹ (phần tôi lãnh gần hai trăm thư ; Thiện và Catherine đâu cũng ba trăm). – Bác sĩ ráng về giải phóng đất nước, chúng tôi xin tình nguyện đi theo ! Tôi ngẩng đầu lên trông thấy một nhóm thanh niên khá tốt tướng. Một anh nói tiếp : – Bất cứ lúc nào, tôi cũng sẵn sàng theo lời kêu gọi cứu quốc của bác sĩ ! Một em khác, trẻ hơn nên quá khích, thêm vào : – Giết cộng sản xong, mình sẽ đi đòi nợ máu tụi Thái Lan ! Tôi gật đầu lấy lệ, chẳng biết trả lời sao. Sống ở đời, nhất là trong thế cô độc ở trại tỵ nạn, ai cũng cần bám vào một lẽ sống, một lý tưởng, để cho thời gian và không gian đỡ đè nén tâm linh, nên tôi không nỡ đem lý trí ra trình bày rằng tình hình chánh trị xừ Việt Nam không tùy thuộc ở tôi. Tàu hụ còi, tiếng còi vang dội vào núi rừng nghe thật não nùng, tựa như con thú bị thương gào thét. Máy tàu từ từ nhịp mau hơn như muốn sớm dứt khoát với sự quyến luyến, nỗi sầu nhớ muôn bề. Vài phút sau, tôi cố lấy can đảm nhìn lại hải cảng Puerto Princesa lần chót. Mặt trời rực đỏ khởi sự lặn sau núi đèo. Bầy chim hải âu bay theo như muốn tiễn chúng tôi đến khỏi vịnh… Suốt bốn ngày, trên đường về Singapore, tôi có cảm tưởng như đang sống ngược lại thời gian. Mỗi bước đi trên tàu Goelo, tôi vẫn… như nghe thấy đồng bào tôi vẫn còn ở trên tàu. Trên bậc thang này vẫn còn một thiếu nữ ngồi khóc cha đang bị cải tạo, dựa cột kia vẫn còn một thanh niên ôn lại bài học sinh ngữ. Nằm trên mui hầm tàu các cụ già vẫn còn bàn chánh trị, cầu mong phục quốc quân sớm thành công… Mãi đến nay, nhiều đêm tôi vẫn còn nghe còi tàu Goelo hụ trong giấc mơ và bao nhiêu kỷ niệm dập dồn trở lại trong tâm trí làm tôi xót xa vô cùng cho số phận của người tỵ nạn Việt Nam. Vẫn còn 350.000 đồng bào sống tập trung ở các trại tù Đông Nam Á, nhất là ở Thái, sự đối đãi thật là khốn kiếp nếu không muốn nói là vô nhân đạo, khi họ dùng một số trại tù dọc biên giới với Cao Miên để đỡ đạn các đợt tấn công của cộng sản Việt Nam vào đất Thái. Vẫn còn vài ngàn người vượt biển đi tìm Tự Do mỗi tháng và bọn hải tặc Thái càng ngày càng lộng hành… Tôi còn nhớ trên đường về Singapore, gặp nhiều ghe Thái ngoài biển. Họ không nổ máy chạy như lúc trước nữa (vì đã nhận ra tàu Goelo và hay tin Cap Anamur đã về bờ). Nhờ thế tàu chúng tôi đi ngang rất gần và có thể thấy rõ ràng chúng khinh người đến mức không cần hóa trang thành thuyền đánh cá (thả lưới) mà chỉ câu cá bằng cần câu tre hay đánh bài trong khi chờ đợi… (thuyền tỵ nạn ra để cướp).