(Ghi thêm: Đây là một trong những truyện hư cấu ngắn trong tập:’Trong Khu Rừng Nhỏ’ của tác giả Akutagawa Ryùnosuke (1892-1927). Tên tuổi ông gắn liền với tác phẩm Điạ Ngục Môn (Rashomon) và Trong Khu Rừng Nhỏ (Within a Grove) được kết hợp để dựng thành phim bởi đạo diễn Akira Kurosawa (1950). Akutagawa đã viết trên 150 truyện ngắn hư cấu khác nhau; ông còn là tiểu thuyết gia, lý luận gia. Hầu hết truyện hư cấu của ông vẽ lên nét đặc thù văn chương Đông Tây. Nhiều học giả, phê bình nhìn nhận truyện’Trong Khu Rừng Nhỏ’ mỗi vai trò nhân vật như một chứng nhân, soi rọi những gì xẩy ra. Nói lên bi thảm, khủng hoảng nội tại, một sự thật phơi mở được nhìn thấy qua từng nạn nhân. Văn phong giản dị, hàm súc nhiều hình ảnh mới lạ, đượm nét nhân sinh trước vạn vật hữu thể và vô thể, giữa đạo và đời. Ông học Văn chương Anh văn ở đại học Tokyo. Sách đầu tay của ông là truyện dịch từ Anh ngữ sang Nhật ngữ của W.B. Yeats và Anatole France. Ông thực tập về truyền thông báo chí và thông tín viên nước ngoài.Tác phẩm của ông hiện giảng dạy và thực tập ở đại học Nhật, Mỹ và nhiều nước khác. Ông được ghi nhận một trong những văn nhân lớn thế giới. Akutagawa sinh và chết tại Nhật Bản).
S
au khi hắn xô xát
tôi, người đàn ông khoác chiếc áo ngắn màu nâu chàm
nhìn đăm đăm vào chồng tôi và cười rống lên một
cách dã man. Chồng tôi xoắn đi khỏi nơi này và trói
lại, nhưng sợi thừng quấn quanh người chồng trông gút
chặc hơn. Tôi nhào tơi với chồng tôi, nhưng gã đàn ông
đó đá tôi xuống đất. Đôi mắt chồng tôi tá hỏa,
trợn trừng. Tôi không thể tả nổi cái nhìn đau đớn
của chồng; nhớ lại mà làm cho tôi rùng mình, khiếp sợ.
Đôi môi không mấp mé một lời nhưng nhìn như muốn nói
hết điều gì. Có một sự rẻ rúng lạnh nhạt trong
người chồng nhiều giận dữ hơn là hối tiếc. Đó là
cái nhìn đau xót trong tôi còn hơn cú đá vào người. Tôi
bực khóc, rồi lịm dần.
Trong
khi xem xét lại lần cuối; người đàn ông khoác chiếc
áo ngắn màu nâu chàm đã bỏ đi… Ở đó chỉ còn lại
chồng tôi, vẫn trói đứng bên cây bách hương già. Bỗng
nhiên tôi ngẫn đầu nhìn lên những đọt tre và rồi đăm
đăm nhìn chồng. Chồng tôi không thay đổi gì cả, ngoại
trừ cho một ghét bỏ khinh khi mà cảm giác đó chầm chậm
tràn vào trong sự bày tỏ của chồng tôi về thái độ
lạnh nhạt coi thường. Thật tình không biết gọi cái sự
cớ đó là gì mà tôi đã cảm thấy… xấu hổ… hối
tiếc… phẩn nộ ? Tôi đã cố gắng lê đôi chân và
tiến gần về phiá chồng tôi.
Chồng
ơi! tôi không còn bên người nữa đâu. Tôi đã quyết
định chết và phải hoàn thành điều này. “Những gì
em muốn nói là những gì chúng ta cùng chết bên nhau. Anh
đã nhận ra con người giả dối của em và em không thể
để lại những gì sau đó”.
Người
chồng nhìn một cách kinh tởm, thật khó cho tôi nói. Tôi
nén lòng trong nỗi đau buồn. Tôi đảo mắt tìm thanh gươm
của chồng. Kẻ cướp đã tinh mắt lấy thanh kiếm luôn
cả cung tên. Phúc thay; đoản đao còn đây, nằm cạnh
chân trái tôi. Tôi nhặt lên. “Cho em thay cuộc đời
anh”. Tôi gào lên. “Em sẽ bên anh trong từng phút giây”.
Giữa
lúc đó người chồng nghe những lời tha thiết vọng lại.
Cuối cùng rồi chồng tôi mới ú ớ. Tôi chẳng có nghe
một tiếng nói nào, thì ra miệng của chồng tôi nhét đầy
lá. Tất cả vắng lặng; tôi có cảm giác như nghe lời
gào thét của chồng tôi “Giết đi! giết tôi đi”.
Trong nửa mơ nửa tỉnh: tôi chụp lấy cây thanh đao phóng
tới chiếc áo khoác màu cánh dán, trúng ngay tim chồng
tôi.
Tôi
yếu lòng một lần nữa. Khi ấy tôi hoàn toàn thức tỉnh
thì chồng tôi đã tắt thở. Ông vẫn còn trói nơi cây
bách hương, gương mặt chồng tôi loé ra dưới những bụi
cây tre và lùm cây bách hương qua tia sáng mờ nhạt của
ánh mặt trời. Tôi cầm nước mắt. Tôi tháo giây trói
trên tử thi. Và rồi làm gì đây? Rồi sự cố gì sẽ
tiếp nối? Tôi không nói năng gì được. Không còn nghĩ
đến cách nào hơn, tôi không thể sống giữa đời này.
Tôi đâm vào ngực tôi và trầm mình vào cái ao cạn dưới
chân ngọn núi. Tôi cố làm cho bằng được, nhưng không
chết như ý muốn. Tôi vẫn sống, nhưng tôi không thể
cho đó là niềm kiêu hãnh trong tình nghĩa vợ chồng. Cho
dù lòng thương xót, cứu độ của Quán Thế Âm cũng
không tha thứ sự hèn nhát như tôi. Nhưng tôi phải làm
gì đây? Kẻ cướp đã hiếp tôi, và; tôi phải giết
chồng tôi. Tôi thực sự … Tôi … tôi … ( Bất chợt
nàng òa khóc tức tưởi). ♥ ./.
Đền
Kiyomizu mà tác giả dựng chuyện là có thực của giáo
phái Phật giáo Hossò và Shin thuộc hạt Higashiyama, dưới
chân đồi Heian-kyò, gần Tokyo.Truyện mang tựa đề:’The
Confession Of A Woman Who Had Come To Kiyomizu Temple”(1921).Là 1
trong 6 truyện ngắn hư cấu của tập truyện:‘Trong Khu
Rừng Nhỏ /Within a Grove’.Mỗi một truyện là hoạt cảnh
xẩy ra trong khu rừng nhỏ, ở đó có đền thờ cổ. Tất
cả truyện được diễn tả sống thực như ý văn của
tác giả trong phim Điạ Ngục Môn (1950). Truyện của
Akutagawa Ryùnosuke sống động, đối thoại ít, hành văn
mang đậm sinh tố văn chương hơn là bút pháp. Đọc
nhiều lần thấy lôi cuốn như mới đọc. Chuyển sang
Anh Ngữ người dịch cố gắng diễn nghĩa đúng tinh thần
Nhật ngữ; kể cả không gian và thời gian trong truyện.
(Dịch giả James O’Brien).
Truyện
rút từ: ‘Thế Giới Hư Cấu /Worlds of Fiction’ by Roberta
Rubenstein and Charles R. Larson. Macmillan Pub. Company.USA 1993.
VVM.01.3.2025.
Đền Kiyomizu mà tác giả dựng chuyện là có thực của giáo phái Phật giáo Hossò và Shin thuộc hạt Higashiyama, dưới chân đồi Heian-kyò, gần Tokyo.Truyện mang tựa đề:’The Confession Of A Woman Who Had Come To Kiyomizu Temple”(1921).Là 1 trong 6 truyện ngắn hư cấu của tập truyện:‘Trong Khu Rừng Nhỏ /Within a Grove’.Mỗi một truyện là hoạt cảnh xẩy ra trong khu rừng nhỏ, ở đó có đền thờ cổ. Tất cả truyện được diễn tả sống thực như ý văn của tác giả trong phim Điạ Ngục Môn (1950). Truyện của Akutagawa Ryùnosuke sống động, đối thoại ít, hành văn mang đậm sinh tố văn chương hơn là bút pháp. Đọc nhiều lần thấy lôi cuốn như mới đọc. Chuyển sang Anh Ngữ người dịch cố gắng diễn nghĩa đúng tinh thần Nhật ngữ; kể cả không gian và thời gian trong truyện. (Dịch giả James O’Brien).
Truyện rút từ: ‘Thế Giới Hư Cấu /Worlds of Fiction’ by Roberta Rubenstein and Charles R. Larson. Macmillan Pub. Company.USA 1993.