Việt Văn Mới
Việt Văn Mới
      



HẸN NHAU MÙA LÚA TRỔ



T hanh vãi xong mấy ký phân ure cho hai sào ruộng lúa đang đòng đòng chuẩn bị trổ, lại mương nước rửa cái thau rồi đứng nhìn đám ruộng lúa xanh tươi, lòng đầy vui thích. Nàng thích nhất là được ngắm nhìn cánh đồng lúa xanh mát vào buổi sớm, tất cả như bừng sáng đón mừng tia nắng đầu ngày vàng tươi, ấm áp. Cánh đồng lúa rì rào reo vui cùng gió sớm, reo vui cùng nắng mai, làm lòng nàng nhẹ nhàng, thanh thản. Nàng hít thở ngọn gió trong lành và mơ ước. Ước mơ một mùa lúa trổ vàng bông bội thu để lời thệ ước được thỏa nguyện, dù lời thệ nguyện ấy đã mấy mươi năm rồi vẫn chưa bao giờ nhạt nhòa trong ký ức. Mùa lúa này qua đi, mùa lúa sau kế đến, tiếp diễn như sự tuần hoàn ngày đêm và sự chờ đợi của nàng như thêm niềm hy vọng về một mùa lúa chín trọn vẹn đôi lứa. Dù những người quen biết hay bà con xóm giềng, bạn bè ai cũng nói rằng, anh ấy đã không còn nữa, mà dù anh ấy có còn trên cõi đời này thì cũng đã đổi thay, không nhớ gì đến lời thề nguyện cùng nàng. Nhưng nàng tin anh ấy vẫn còn đâu đó và sẽ trở về, cùng nàng đón một mùa lúa trổ đầy hứa hẹn.

Hôm nay, đứng trước cánh đồng lúa đang đòng đòng chuẩn bị trổ, nàng mơ hồ nghe hương lúa thơm nồng, mơ hồ nghe bước chân ai trở về nhẹ nhàng, mong nhớ. Một mùa lúa nữa sắp trổ bông mà bóng người xưa vẫn biền biệt. Lời hứa hẹn năm nào đã trôi dần vào mù xa, dịu vợi, quanh nàng chỉ là hoài niệm nhớ thương. Lời người hẹn trước lúc lên đường ngày ấy “Hẹn nhau mùa lúa trổ, mình cưới nhau” có mông muội, mơ hồ, sao nàng nghe rất thật, như còn vang đâu đây giọng nói người xưa vọng về khiến nàng thổn thức. Một cơn gió nhẹ thoảng qua rì rào sóng lúa, như vừa chạm vào vùng trời kỷ niệm thân thương, nhẹ nhàng, thấm đẫm nhớ nhung, trông gần gũi mà xa xôi vời vợi. Thanh nhắm mắt hít sâu nén xúc động vào trong sâu kín tâm hồn, rồi thở ra nhẹ nhàng như sợ cảm xúc vỡ òa, tan biến; rồi ngước nhìn những áng mây trôi bồng bềnh trên bầu trời xanh cao, thoáng hiện đủ hình dáng, như để cố tìm hình bóng người xưa ẩn khuất sau những bóng mây giữa bầu trời mênh mông ấy. Những bông lúa trổ lách tách lao xao trong nàng, lao xao trong nắng gió mông mênh của đất trời hòa quyện. “Anh ơi! Sao anh không trở về? Anh đã quên lời hẹn ước hay anh đã ngủ quên đâu đó không chịu thức dậy để về bên em? Anh giận em ư? Sao anh không nói gì vậy?”. Bao nhiêu buồn thương, ấm ức bỗng tràn ngập trong nàng và nàng như thấy lại những tháng ngày lo âu, thắc thỏm, chờ đợi, đợi chờ như trước mắt.

Ngày ấy, nàng thường lo lắng, hồi hộp dõi theo các trận chiến ác liệt diễn ra báo tin từ đài vô tuyến và luôn cầu nguyện cho anh được bình an, mạnh khỏe trong muôn vàn bất trắc đang xảy ra. Nàng càng hồi hộp, lo lắng, hoảng hốt khi nghe tin đồn rằng tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã có lệnh rút quân bỏ Tây Nguyên. Không tin được điều này, nàng nghĩ, tại sao lại bỏ Tây Nguyên, đó cũng là một phần máu thịt của Miền Nam cơ mà? Cho đến khi nhìn thấy những người vừa thoát chết trở về từ con đường Bảy tập trung ở các trường học, nỗi hoang mang, hoảng hốt trong nàng càng lớn hơn. Và nàng hy vọng sẽ gặp anh trong đoàn người trở về kia, bởi đơn vị anh đóng ở Pleiku, nơi mà làn sóng di tản bắt đầu cho cuộc tháo chạy, cả quân và dân, dù không ai trong số họ biết mình chạy đi đâu và sống chết như thế nào. Ngày nào nàng cũng đến những khu tập trung ấy để kiếm tìm, thăm hỏi về anh, nhưng bóng anh vẫn biền biệt, mù tăm. Rồi sự chờ đợi ấy ngày càng mong manh, hiu hắt, nhạt nhòa khi đất nước đã thống nhất, chính quyền mới đã tiếp quản rồi mà bóng anh vẫn biệt tăm. Anh đã nằm lại đâu đó trên quê hương này mà nàng chẳng hay biết? Ai cũng nói rằng anh đã chết, nhưng nàng tin anh vẫn còn đâu đấy và sẽ trở về dù bao lâu đi nữa như lời anh đã hứa.

Thanh nhớ anh. Nhớ lời thề nguyện của hai đứa trước lúc anh lên đường nhập ngũ. Anh nhìn nàng âu yếm:

- Anh sẽ về em ạ! Hẹn em mùa lúa trổ chúng ta sẽ cưới nhau.

Thanh nũng nịu:

- Anh nói vậy là sao? Sao lại hẹn mùa lúa trổ? Lời hẹn của anh không rõ ràng, em hổng chịu.

Anh nâng khuôn mặt nàng, nhìn sâu vào đôi mắt ứa lệ hứa hẹn:

- Em ạ! Đất nước còn chiến tranh, anh làm sao biết được bao giờ được thanh bình, an ổn. Em có biết hương lúa trổ thơm nồng, thắm tình người, tình đất, thắm tình của đôi ta không? Hẹn nhau mùa lúa trổ, nghe lãng mạn và thơ mộng, em có nghĩ như anh không? Lỡ mùa lúa này ta còn có mùa sau, luôn là mơ ước và hy vọng. Tình ta đẹp như vậy đó!

Không chờ Thanh trả lời, anh cúi xuống hôn nàng thật lâu, nụ hôn như lời hứa hẹn chân thành và nàng tin như vậy.

Mấy mươi năm qua nàng vẫn luôn nhớ hình ảnh anh lúc chia tay ấy. Nàng chờ đợi mùa lúa trổ và mùa lúa này qua, mùa lúa sau tới ba mươi mấy năm rồi, mùa lúa trổ trong nàng vẫn nguyên vẹn một màu xanh thì, dù có chút hiu hắt. Thời gian đã bào mòn tất cả, nhan sắc, niềm tin và sự đợi chờ, hy vọng. Tóc trên đầu nàng bắt đầu lốm đốm sợi bạc. Sức khỏe nàng ngày một hao mòn, bắt đầu đau nhức, rệu rã khắp người. Nàng tự hỏi mình, chẳng lẽ một ngày nào đó mình sẽ ra đi như vầy sao? Nàng không cam tâm. Cuộc đời buồn như vậy ư? Nàng nghĩ, dù mình là một nhà giáo, cống hiển cả tuổi thanh xuân cho sự nghiệp giáo dục, rồi cuối cùng cũng phải tuân theo định luật “sinh, lão, bệnh, tử” như bao người?. Tình yêu đối với nàng là sự đợi chờ, thương nhớ. Bỗng nhiên nàng muốn làm một việc gì đó để lại cho chính cuộc đời dẫy đầy khổ đau này. Và nàng trải bày tâm sự cũng như ước mơ vào trang viết. Nàng bắt đầu viết. Viết không mệt mỏi. Nàng muốn trải lòng

Mikhain Sôlôkhốp, Cánh với sự tận tụy, hiến dâng, muốn cuộc sống này được an vui, hạnh phúc bằng tất cả sự chân thành, tâm nguyện. Mới đầu nàng có chút khó khăn vì đã lâu lắm nàng không ngồi vào bàn để viết, dù đó là đam mê của nàng thời còn đi học. Sau đó, như được khai thông huyết mạch, những cảm xúc cũng như con chữ, dạt dào tuôn chảy; và trong nàng như bừng lên một sức sống mới, mãnh liệt, căng tràn.

Tác phẩm của Thanh đều đặn được xuất bản, nàng hy vọng được chia sẻ những ước mơ, hoài bão cùng với mọi tầng lớp xã hội, nhất là với những người nghèo khổ. Nàng muốn nói giùm cho những phận người bất hạnh, nghèo khổ những ước mơ và cảm thông một cách chân thành nhất. Và rồi tác phẩm của nàng, được đăng trong nhiều tạp chí, trên những trang website trong và ngoài nước, được nhiều bạn đọc đón nhận, làm nàng thêm tin tưởng và vui mừng. Nàng hứa với lòng mình, sẽ cố gắng hơn nữa để không phụ lòng tin của tất cả.

Có một bạn đọc ở phương xa, gởi email xin mua tất cả những tác phẩm của nàng đã xuất bản. Thanh vui vô cùng khi có người muốn đọc toàn bộ tác phẩm của mình, đấy cũng là niềm khích lệ, động viên cho nàng khi chọn con đường đến với văn chương. Và nàng nghĩ, những trang viết của nàng là những bông lúa trổ, ngạt ngào mồ hôi và nước mắt, chan chứa tình nàng dành cho anh, dạt dào tình quê hương, đất nước, con người.

Bạn đọc đặt mua sách của nàng thật đặc biệt, nhận sách nàng gởi, anh đọc thật kỹ, đồng cảm và yêu thích. Anh gọi điện chia sẻ cùng nàng rằng, tình cờ anh đọc truyện của nàng đăng trên trang cá nhân face book, anh thấy thích vì văn nàng trong sáng, gần gũi, dễ cảm thông, anh như thấy mình trong đó, nên muốn đọc toàn bộ tác phẩm của nàng. Sau đó, thỉnh thoảng anh gọi điện thăm nàng, chia sẻ cùng nàng về quan niệm sống cũng như suy nghĩ của mình về văn học hiện nay. Anh nói về “Tự Lực Văn Đoàn” nàng cũng có thể góp lời cùng anh, nào “Anh Phải Sống”, Đoạn Tuyệt hay Hồn Bướm Mơ Tiên, Đôi Bạn và nhiều nhiều nữa. Nàng chia sẻ cùng anh rằng, nàng rất thích hình ảnh cô Loan choàng chiếc khăn vôn bay bay trong gió trên đê Yên Phụ, trông đẹp và lãng mạn. Anh không ngờ, nàng đồng cảm cùng anh hình ảnh ấy, luôn sống động trong anh những năm còn giảng dạy, và anh ước được một lần đi trên đê Yên Phụ để cảm nhận được tình cảm của cô Loan cũng như tác giả Nhất Linh. Anh càng cảm mến nàng hơn, khi tình cờ nàng nhắc đến tác phẩm “Giờ thứ 25” của Constantin Virgil Gheorghiu, nàng nói rằng nàng rất thích cuốn sách này, nó lôi cuốn nàng đến độ bỏ ăn để đọc cho hết; thích nhất là những đơn thỉnh nguyện đã từng làm nàng say mê. Đôi khi anh chuyện trò cùng nàng quên cả thời gian về những tác phẩm anh yêu thích. Anh rất vui vì có người để anh chia sẻ, những kiến thức về văn học tưởng đã ngủ quên, bỗng sống dậy từ khi anh gặp được nàng. Nàng có thể nói cùng anh về “Những Người Khốn Khổ” của Victor Hugo hay thằng Gù trong Nhà Thờ Đức Bà Paris; nàng Scarlett trong “Cuốn Theo Chiều Gió” của nhà văn nữ người Mỹ Margaret Mitchell, Đất Vỡ Hoang của Mikhain Sôlôkhôp, Cánh Đồng Bất Tận của Nguyễn Ngọc Tư, hay Sông Côn Mùa Lũ của Nguyễn Mộng Giác v.v… Tình cảm anh dành cho nàng ngày một sâu đậm, anh thấy nhớ nhung và xao xuyến, luôn nhớ nghĩ đến nàng. Rồi anh ao ước được thăm nàng, đi bên nàng, được đối diện cùng nàng để bàn luận về văn học, về những tác phẩm mà anh yêu thích.

Và anh đã đến thị xã nơi nàng sống và làm việc vào một sáng đầy hơi thu, trời trong xanh, gió mát. Thanh hứa sẽ đón anh ở ga xe lửa, rồi đưa anh đi thăm một vài nơi nổi tiếng ở thị xã này. Anh vui vì sẽ được gặp con người thật của Thanh nơi vùng đất mà anh yêu thích, gắn kết, dù chỉ là trong trang viết. Anh có chút hồi hộp khi tàu vào sân ga và dừng lại. Anh xuống tàu, nhìn bao quát cả sân ga, tìm kiếm một hình ảnh quen thuộc mà anh đã từng đọc, dù nơi đây anh chưa từng đặt chân đến bao giờ. Kia rồi hàng bạch đàn phía ngoài sân ga với ánh nắng vàng nhạt đã từng đón chào anh Tư trở về khi mãn hạn tù. Đây rồi chiếc ghế đá mà cô Thùy ngồi đợi con tàu đưa con trai mỗi chiều cuối tuần về thăm nhà. Và anh đã lại ngồi trên chiếc ghế đá ấy chờ nàng đến. Anh hình dung ra nàng, một người phụ nữ có dáng mảnh mai, gương mặt gợn buồn, ánh nhìn xa xăm, sâu lắng và nụ cười thân thiện, dễ mến. Anh thầm mơ ước, giữa những gì anh suy nghĩ và thực tế là một, để anh càng yêu mến nàng hơn.

Tân nhìn thấy một người phụ nữ vội vội, vàng vàng từ ngoài đi vào phòng đợi, tay cầm điện thoại đang gọi và điện thoại trong túi anh rung chuông. Anh biết chắc đó là Thanh, đưa tay vẫy nàng và trả lời điện thoại. Gương mặt nàng bừng sáng khi nhìn thấy anh cầm máy trả lời, vội đi về phía anh. Anh đứng dậy đón chào nàng, nở nụ cười tươi và vô cùng hạnh phúc, vì con người đang đứng trước mặt anh đúng như những gì anh hình dung trước đây. Có một cái gì đó thật gần gũi làm anh xao xuyến, rung động, rồi anh nghĩ, con người này đã bắn trúng trái tim anh rồi.

Như đã hứa, nàng đưa anh đi thăm một vài thắng cảnh quê mình, anh cứ trầm trồ khen ngợi quê nàng đẹp quá và anh nói với nàng muốn lưu giữ hình ảnh này, dù nàng chẳng biết ý của anh ẩn sâu. Nàng đón và đưa anh tham quan nơi này chốn nọ là vì anh là một bạn đọc đặc biệt, nhiều ưu ái với trang văn của nàng vậy thôi. Phần Tân, anh cảm thấy luống cuống, hồi hộp, một cảm giác chưa bao giờ có từ khi người vợ thân yêu của anh chạy theo một bóng hình khác. Anh đau khổ, rồi hận người vợ mà mình hết mực thương yêu, nỡ lòng bỏ anh để chạy theo một người đàn ông khác, chỉ vì anh ta là giám đốc của một trung tâm dạy nghề. Đã là vợ chồng mà còn so sánh, trộm nghĩ về một người khác, rồi đòi ly hôn; thì anh cũng có tiếc chi một người vợ hời hợt như vậy. Trước đây, anh cũng là một giáo sư, giảng dạy ở một trường trung học danh tiếng, nhưng sau khi thống nhất đất nước, chính quyền mới tiếp quản, một số thầy cô giáo phải thôi dạy, trong đó có anh, dù anh không biết mình đã mắc lỗi gì. Bao nhiêu năm qua, anh vất vả vì cuộc mưu sinh, tất cả đã lui về quá khứ, cả tình yêu và sự nghiệp. Anh thu mình như một con ốc bể, chỉ nghe tiếng sóng rạt rào ru mình trong nỗi cô đơn, trống vắng. Đàn bà đối với anh là sự dối lừa, thay đổi, nhỏ nhen, vụn vặt; nên anh xa lánh, không tiếp xúc với một ai, cho đến khi anh đọc những tác phẩm của nàng. Anh nhận thấy văn của nàng hiền lành, dân dã, trong sáng và không hiểu sao anh lại say mê đọc văn nàng, rồi say mê nàng, dù anh chưa một lần gặp mặt. Những tưởng tất cả đã ngủ yên, không ngờ trong anh lao xao một niềm thương nhớ vô bờ. Rồi khi gặp nàng, anh thấy tình yêu bỗng thức dậy mãnh liệt, sau bao năm hóa đá; rồi anh ao ước được cùng nàng đón mùa lúa trổ, được cùng nàng đi hết cuộc đời này. Anh cảm thấy giữa anh và nàng khoảng cách chỉ là một sợi tóc, mong manh nhưng khó mà phá vỡ; bởi nàng luôn chờ đợi mùa lúa trổ với một mối tình vô vọng. Nhưng anh tin, anh có thể phá bỏ khoảng cách ấy để đến với nàng, trong vai người đàn ông mà nàng chờ đợi bấy lâu.

Thanh nhìn người đàn ông trước mặt, tóc đã bạc, da sạm màu nhưng không giấu được nét thông minh, đĩnh đạt và cái nhìn ấm áp. Thấy anh cứ trộm nhìn mình, nàng có vẻ ngượng ngùng. Và nàng càng ngượng ngùng hơn khi nhớ lại, lúc chuẩn bị đến ga đón anh; không hiểu sao nàng lại phớt chút má hồng, tô chút son, vì chẳng bao giờ nàng làm vậy từ lâu lắm rồi. Đứng trước tấm gương nàng thấy mình già lắm, tuổi xuân đã lùi xa, da mặt không còn mơn mởn, hồng hào như thuở nào; thay vào là lớp da chết, sạm màu, màu của thời gian, chờ đợi. Nàng chạnh buồn, một nỗi buồn mênh mông, tiếc nuối, khiến nàng ngơ ngác, chơi vơi. Thanh nhìn thấy chung quanh mình là những làn sóng cuộn trào tiến về phía trước đầy sức sống; hy vọng điều đó sẽ truyền tải chút nghị lực cho nàng thêm sức mạnh bước về phía trước, để nàng có thể được đón một mùa lúa trổ thật trọn vẹn. Rồi Thanh nghĩ, mình còn có thể chờ đón một mùa lúa trổ nào nữa không, khi mà vòng tay mình không còn đủ sức để nâng niu một bông lúa? Nàng chợt khóc, sao cuộc đời mình lại hẩm hiu, buồn bã như vậy? Nàng có đủ tình yêu thương, sự kiên nhẫn, chung thủy kia mà! Và những bông lúa trổ nhòe nhoẹt trong nàng cùng những ngậm ngùi, thương nhớ.

Tân đưa tay chùi những giọt nước mắt nàng vừa chảy trên má và ao ước được uống những giọt nước mắt ấy vào lòng, hòa tan cùng máu vào tận trái tim anh. Anh nghe giọt nước mắt nàng nóng hổi, mặn mà và yêu thương cháy bỏng. Anh thầm thì:

- Cho phép anh được cùng em đón mùa lúa trổ, em nhé! Em xứng đáng được yêu thương, hạnh phúc, đừng vì cái bóng của quá khứ mà chôn vùi tất cả. Hạnh phúc đơn giản lắm, chỉ cần ngồi xuống là sẽ thấy, em ạ!

Thanh chợt thấy đầu mình đau nhức, rệu rã, và trước mặt là một màu đen tăm tối. Nàng bỗng chơi vơi, giãy giụa trong vũng tối ấy và nhoài người muốn thoát ra khỏi bằng tất cả sức mạnh. Vũng tối ấy bỗng nhạt dần hóa thành những sắc màu xanh đỏ vàng tím hòa trộn vào nhau, với những bông lúa trổ mượt mà, dịu dàng lao xao trong chiếc đầu nhỏ bé của nàng. Thanh bỗng thấy người xưa ẩn hiện mỉm cười cùng nàng, rồi anh ấy chợt hóa thành Tân đang lau nước mắt cho nàng. Thanh bỗng khóc lớn hơn, những giọt nước mắt tuôn lả chả như bị tắt nghẽn bấy lâu, nay được dịp khơi dòng. Nàng thấy lòng mình ấm áp, rung động, dòng suối yêu thương đang rạo rực chảy vào tim. Những bông lúa trĩu nặng, ươm vàng đang xuyến xao trong nàng. Có lẽ nào, trái tim mình còn rung động? Nàng tự hỏi và cũng tự trả lời rằng, cũng là một mùa lúa trổ, ươm vàng yêu thương như lời hẹn ước.

Tân ôm chặt nàng, hôn lên đôi mắt nàng, uống những giọt nước mắt nàng đầy hạnh phúc. Anh thì thào: “Anh yêu em! Yêu vô cùng Thanh ơi!”.

Một mùa lúa trổ lại về. Anh cầm tay nàng cùng nhau đón mùa lúa mới trong vô vàng hạnh phúc!.   /.

Bên dòng sông Tắc - Những ngày đầu tháng 9.2023



VVM.27.01.2025.