Việt Văn Mới
Việt Văn Mới
      


VỀ NƠI XA THẲM


P hút đầu quen nhau, Trâm vừa an vị trên máy bay thì Alex cũng vừa đến. Chị ngồi giữa, một người nữa ngổi trong cùng, Alex ngồi ngoài. Chuyến bay từ Đà Nẵng vào Sài Gòn. Ngồi bên cạnh một người đàn ông nước ngoài xa lạ, Trâm thấy không thoải mái. Lúc tiếp viên nhắc nhở mọi người thắt dây an toàn, chị quơ tay tìm sợi dây nịt. Alex cũng làm động tác tương tự. Tình cờ hai người cùng lộn dây. Alex cầm sợi dây nịt của chị, chị cầm sợi dây nịt của Alex, hai người cùng phát hiện sự nhầm lẫn và cả hai cùng cười. Một nụ cười hết sức tự nhiên, không gượng ép. Thế là quen nhau. Chị nhìn Alex: một sống mũi rất thẳng, một khuôn mặt cương nghị, có vẻ là người Mỹ.

Câu đầu tiên chị hỏi Alex:

- Xin lỗi, bạn là người Mỹ phải không?

Alex lắc đầu cười, nụ cười thân thiện:

- Không, Tôi là người Đức. Nhưng tôi hiện sống và làm việc ở Mỹ.

Và thật trùng hợp ngẫu nhiên, Alex làm việc cùng thành phố Trâm sống. Nếu tính bằng phương tiện xe hơi thì nhà Alex cách nhà Trâm khoảng bốn lăm phút lái xe.

Mặc dù Trâm cũng sống ở Mỹ nhiều năm, nhưng chị vẫn không thể phân biệt được người Mỹ và người Châu Âu. Cũng như người Mỹ và người Châu Âu thường không phân biệt được người Việt và người dân các nước Châu Á khác. Rất nhiều lần chị bị người Mỹ bản xứ nhầm với ngưới Hoa. Với người châu Á, Trâm luôn có ý thức cộng đồng. Nhiều lần trên những chuyến bay nội địa trong nước Mỹ, Trâm nhìn quanh: Cả máy bay là người da trắng, và một số kha khá người da đen. Không có người châu Á nào ngoài chị. Tự nhiên Trâm thấy cô độc lạ lùng. Giống như mình bị lạc vào một hành tinh lạ. Bất ngờ chợt thấy sau mình mấy hàng ghế có một phụ nữ tóc đen, da hơi ngăm ngăm, Chị ngỡ cô ta là người Việt và có ý định lúc xuống máy bay sẽ hỏi có đúng cô ấy là người Việt không. Nhưng trái với nhận định của Trâm, khi Trâm hỏi, cô ta lắc đầu mỉm cười: “ Không. Tôi là người Philipin.”. và cô ta lịch sự hỏi lại: “ Bạn là người Việt phải không ?”. Trâm gật đầu : “ Vâng. Nhưng bạn trông giống người Việt.”

Trái với Trâm, Kha có nhiều định kiến không tốt với người Việt trên đất Mỹ. Anh định cư ở Mỹ hơn Trâm nhiều năm. Và cũng thấy nhiều tính xấu của người Việt. Anh nói người Việt không thật thà, và nhiều tính xấu khác nữa. Nào là ly hôn giả để được nhận tiền già nhiều hơn, nào là kết hôn giả, nào là soi mói người khác, thấy người ta hơn mình thì ganh ghét, thấy người ta thua mình thì khinh khi. Vùng nào có nhiều người Việt, người da đen và người Mễ ( Messico ) thì có nhiều tệ nạn xã hội như trộm cắp, cướp giựt… Vì vậy khi mua nhà, anh cũng tìm đến vùng chỉ có người Mỹ da trắng sinh sống. Nghe Kha nói, Trâm im lặng không nói gì. Chị biết tính anh. Khi anh có định kiến gì thì cũng khó làm anh thay đổi. Nhưng chị cũng công nhận Kha nhận xét có phần đúng. Khách quan mà nói người Mỹ xử sự văn minh, lịch sự hơn người Việt. Những lần Trâm đi bộ một mình - vì nhu cầu thể dục - quanh khu vực chị sống, thường thấy người Mỹ lịch sự dừng xe chờ chị qua đường. Hoặc nếu họ cũng đi dạo thì gặp Trâm từ xa họ đã vẫy tay “helo “ rất nồng nhiệt. Cũng có lần Trâm gặp một phụ nữ người Việt đi bộ ngược chiều, từ xa Trâm đã nhận ra đó là một người đồng hương và hy vọng sẽ có dịp nói tiếng Việt cho thoả thích. Thế nhưng trái với suy nghĩ của chị, người này chạm mặt chị nhưng nét mặt lạnh lùng, không hề có chút thân thiện, làm chị cụt hứng không dám chào hỏi.

Còn nữa, một lần Trâm đi máy bay giá rẻ - một chuyến bay từ nơi chị sống sang California – vì là máy bay giá rẻ nên hành lý chỉ được phép xách theo một chiếc ba lô. Trâm mang theo một chiếc va ly loại bé nhất, loại va ly dành cho trẻ con xách tay. Lúc đi thì không sao, lúc về gặp một nhân viên nữ người Việt. Ngay từ đầu cô ta đã khẳng định là va ly này không được chấp nhận, mà phải chịu phạt năm mươi đô. Trâm cãi tại sao cùng một hãng bay lúc đi lại được mà lúc về lại bị phạt. Thấy hai người to tiếng, một cô nhân viên người Mỹ đến, cô bảo Trâm đem valy đến bỏ vào thùng quy định kích cỡ, va ly lọt ngay. Cả năm nhân viên người Mỹ đứng đấy đều Ok, riêng cô nhân niên người Việt không chịu. Cô ta còn nói nếu không chịu nộp phạt bây giờ, lát nữa đến cổng lên máy bay sẽ có cô ta đứng đấy, và sẽ bị phạt tiền nhiều hơn. Trâm thấy bực tức không chịu được. Giá như cô ta là người Mỹ thì Trâm không bực, đằng này cô ta là người Việt hẳn hoi, cô ta nói chuyện với Trâm bằng tiếng Việt, mà lại đi o ép đồng hương của mình đến thế. Thật là vô lý. Có lẽ cô ta muốn thể hiện cái quyền của mình. Và lần này thì Trâm thấy Kha có lý.

Trâm biết Kha từ khi hai người còn học phổ thông. Giữa hai người cũng có nhiều kỷ niệm vì cùng ở trong đội ngũ văn nghệ của trường. Hồi đó Kha đẹp trai, tài hoa, là cây văn nghệ nổi tiếng của trường. Trâm biết có nhiều nữ sinh mê anh, trong đó có Trâm. Nhưng không thấy Kha yêu ai, anh chỉ lao vào học để mong đậu vào một trường đại học chuyên ngành như đại học kỹ thuật Phú Thọ hoặc đại học Quân Y để khỏi trực tiếp cầm súng. Và đúng với mơ ước của anh, anh đã đậu vào đại học Quân y. Thời đó chiến tranh thật khốc liệt. Con trai rớt đại học là đi vào quân trường. Sau 1975, Kha đi ờ tù chỉ vài năm vì anh là trung uý bác sĩ quân y mới ra trường chưa bao lâu. Ra tù Kha vất vưỡng một thời gian, làm đủ nghề. Về sau anh được một ông chú ruột đi tập kết về xin cho anh làm trong một bệnh viện của thành phố. Thời đó Trâm cũng là một giáo viên cấp ba, sống lay lắt với đồng lương mạt rệp. Hằng ngày nhìn những bữa cơm gia đình mà ngao ngán. Nhiều bữa chỉ có mì sợi ruột chan nước mắm thay cơm. Nhìn cả nhà sì sụp mà đau xót. Nhưng dù sao Trâm cũng chưa có gia đình riêng. Thấy bạn bè có con nhỏ mà không đủ dinh dưỡng cho con, đứa nào cũng èo uột, ốm đau liên miên. Bọn nhóc thèm bánh mì đến nổi ra đường là nhìn chằm chằm vào những chiếc xe bánh mì di động mà không dám xin mẹ. Điều đó làm Trâm sợ, không dám nghĩ đến chuyện lấy chồng. Thỉnh thoảng Trâm gặp Kha trong những lần Trâm đi khám bệnh tại bệnh viện, cười chào nhau vội vàng, không đủ điều kiện để hẹn hò một buổi cà phê. Có lần Kha đến nhà chơi, chuyện vãn một chặp rồi anh nhìn quanh, nhỏ giọng hỏi:

-Mình có mối vượt biên, Trâm đi không?

Trâm hơi bất ngờ:

-Trâm không có điều kiện. Chắc ít nhất cũng ba cây?

Kha lắc đầu:

-Họ cho đi không. Chỗ quen biết.

Trâm hơi nghi ngại. Làm gì có chuyện đó. Kha nói:

-Trâm quyết định nhanh nhé. Ba ngày nữa cho mình biết.

Kha đi về rồi, Trâm suy nghĩ thật nhiều. Nửa muốn đi, nửa không. Nếu chẳng may bị bắt lại thì không biết sẽ ra sao. Vả lại đây là người quen của Kha, mình đi như thế mang tiếng lợi dụng người ta. Người ta cần Kha đi vì Kha là bác sĩ, chuyến đi nào cũng cần có một người rành về ngành y. Còn Trâm thì…Nhưng mà sống như bây giờ thì tương lai mịt mù quá. Hỏi ý kiến ba mẹ, ba thì đồng ý, mẹ thì lo sợ sẽ gặp những điều không may. Trâm tác động thêm:

-Đường biển ở miền Trung không qua vịnh Thái Lan nên không sợ gặp hải tặc đâu mẹ. Vả lại đi vào mùa hè đường biển ở đây cũng yên, không sợ gặp bão bất ngờ như ở vịnh Thái Lan. Nghe nói nếu bình yên thì chỉ bốn ngày đêm là đến Hồng Kông thôi mẹ.

Mẹ Trâm phân vân, rồi thở dài:

-Thôi thì tuỳ con.

Như có động lực thúc đẩy, Trâm báo cho Kha biết quyết định của mình. Kha hỏi:

-Trâm bơi cũng khá phải không? Chuẩn bị một bộ đồ màu đen gọn nhẹ. Ngoài ra tuyệt đối không mang theo giấy tờ cá nhân gì cả.

Mẹ Trâm cũng giúi cho Trâm hai chỉ vàng, mấy gói mì ăn liền và mấy chai nước suối đựng trong một bịch ny lông. Bà cẩn thận luồn hai chỉ vàng vào lai áo cho Trâm rồi khâu lại. Tối hôm ấy Kha đến đưa Trâm đi. Đêm không trăng tối như mực tàu. Hai người ra đến một bờ biển vắng vẻ của thành phố rồi ngồi ở đấy ra vẻ một cặp tình nhân hẹn hò nhau. Chờ ở đấy hơn một tiếng mà trống ngực Trâm đập như muốn lỗi nhịp. Từ lúc nào Kha nắm chặt tay Trâm như trấn an. Cuối cùng cũng có một chiếc ghe thúng ghé bờ ra dấu cho hai người lên. Họ được chở ra một gò đất đá lớn nổi trên biển, đổ bộ xuống đấy chờ tàu đến. Lúc ấy trên gò đất cũng có khoảng bảy tám người gì đó.

Chờ mãi đến gần khuya vẫn không thấy tàu lớn đến, Trâm bắt đầu sốt ruột và lo sợ. Sóng biển đập vào bờ rì rào cùng với bóng tối bí hiểm làm Trâm muốn run lên. Đám người bàn tán nhau, hỏi ra thì cả đám người đều là những người đi không tốn tiền. Và họ vỡ lẽ ra cả bọn chỉ là những con chim mồi, nều có biến thì họ sẽ là những vật hy sinh trước. Chắc có lẽ là đã có biến nên tàu lớn đã không ra. Cũng có thể tàu đã ra khơi nhưng bị lộ nên cố sức chạy mất, không thể ghé rước nhóm người này. Bấy giờ thuỷ triều cũng đã lên. Kha quyết định bảo Trâm bơi vào bờ. Nếu không, đứng đây thuỷ triều lên sẽ chết. Những người biết bơi đã lần lượt nhảy xuống, không còn cách nào hơn, Trâm cũng đánh liều nhảy xuống. Những người không biết bơi không biết làm gì hơn bèn kêu cứu ầm ỉ. Kha động viên Trâm:

-Đừng sợ. Trâm biết bơi mà, cứ bơi gần mình. Ở lại không chết vì nươc biển dâng lên cũng bị công an đưa tàu tuần tra ra bắt. Họ kêu cứu to thế chắc chắn tàu của công an sẽ nghe thấy.

Nước biển về khuya lạnh ngắt. Từ đây vào bờ chắc khoảng hơn cây số. Nhìn vào bờ thấy ánh đèn nhỏ li ti Trâm có cảm giác như đó là một tinh cầu nào xa xôi mà mình không thể nào đến được. Cái lạnh của biển đêm và độ xa của bờ nhanh chóng làm Tâm đuối sức. Có lúc Trâm đã nghĩ đến cái chết. Đến khi cô thấy rã rời muốn buông tay thì Kha xốc cô lên. Kha thật khoẻ, vừa bơi vừa đưa Trâm vào bờ. Cho đến khi chân chạm vào cát thì Trâm và Kha đều nằm sóng soài như hai xác chết. Nhưng Kha nhanh chóng ngồi dậy bảo Trâm:

-Ráng lên Trâm. Ở đây sẽ bị bắt mất. Hai người ướt như chuột thế này giữa đêm hôm khuya khoắc không vượt biên thì là gì?

Kha vực Trâm dậy. Anh nói:

-Cứ bình tĩnh đi thong thả. Nếu gặp người họ sẽ nghĩ chúng mình là tình nhân hẹn hò nhau.

Và anh khoác tay Trâm dìu cô đi.

Trâm về đến nhà đã mười một giờ hơn. Ba mẹ cô không ngủ được nghe tiếng gõ cửa vội vàng mở cửa. Thấy Trâm người ướt như chuột lột mẹ Trâm vừa khóc vừa nói:

-Con vào tắm thay quần áo nhanh kẻo ốm.

Hôm sau Kha đến, anh xin lỗi Trâm và báo tin đêm hôm đó vì có kẻ bất mãn báo công an nên tàu đã không xuất phát. Chuyến đi lùi lại tìm cơ hội khác. Cả bọn người không biết bơi tập kết trên gò đất đêm hôm đó đã bị công an đưa tàu ra bắt hết. Anh hẹn lần sau. Nhưng Trâm đã như chim một lần bị tên, đâu còn can đảm đi tiếp. Trâm nghĩ mình còn sống sót trở về là may lắm rồi. Vậy mà mấy tháng sau nghe tin Kha đi, và lần này anh đã đến Mỹ.

Bẵng đi một thời gian dài, Trâm nhận được thư Kha gửi về. Kha nói anh đã tạm ổn với cuộc sống mới, và đang vừa làm vừa đi học lại ngành Y. Những năm đầu sau 1975, Kha và những bác sĩ người Việt vượt biên như anh chỉ phải học lại y khoa khoảng năm năm, không phải như sau này phải học lại toàn bộ. Anh nói vất vả lắm, anh lại phải vừa học vừa làm nhưng anh sẽ cố hết sức để không bỏ học nửa chừng. Anh xin Trâm hãy đợi, khi nào có quốc tịch anh sẽ về cưới Trâm và bào lãnh cho cô qua Mỹ. Dù sao thì đó cũng là một lời hẹn để Trâm có chút hy vọng sống qua thời bao cấp buồn nãn. Rồi cũng đến lúc Kha học xong. Sau khi có chỗ làm ổn định và thi đậu quốc tịch, anh đã trở về Việt Nam cưới Trâm. Hồi đó gia đình Trâm rất mừng và bạn bè ai cũng nói Trâm may mắn.

Qua Mỹ, lạ nước lạ cái, lúc đầu Trâm cũng hụt hẫng. Chị thấy dù sao ở Việt Nam chị cũng có một chỗ đứng nhất định trong xã hội. Còn ở Mỹ, chị thấy mình bơ vơ, lạc lỏng. Hàng rào ngôn ngữ là khó khăn chị phải đối mặt hàng ngày. Nhiều lúc chị thấy mình như người từ hành tinh nào khác lạc đến. Kha động viên Trâm đi học lại, anh bảo lương bác sĩ như anh không phải lo nghĩ về mặt kinh tế. Trâm cứ yên tâm học tập. Lúc nhỏ còn đi học trâm được cái chăm và học giỏi. Vì vậy sau bốn năm chị cũng cày xong đại học, mặc dù khá vất vả.

Có việc làm rồi, hai người mới dám nghĩ đến chuyện có con. Bận rộn nào công việc ở công ty, việc chăm con, Trâm thấy vơi bớt nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương. Nhưng điều mà chị thấy nhớ day dứt nhất là mỗi lần xuân về là không khí cái tết Việt. Sống trên đất Mỹ, mỗi dịp giáng sinh không khí có vui hơn một chút, nhưng tết Mỹ lại nhạt nhẽo. Sau tết Mỹ khoảng một tháng là tết Việt Nam. Tiểu bang Trâm sống khoảng vài chục nghìn người Việt, nhưng nhà Trâm lại ở khu người Mỹ, nên tết Việt không hề có chút không khí gì. Những ngày cận tết đi làm về Trâm cứ bâng khuâng tưởng tượng lúc này đường phố Đà Nẵng tràn ngập không khí rộn rã của mùa xuân. Nhớ những lần đi mua sắm cùng mẹ những cái tết trước 1975, thời gia đình chị còn sung túc. Chiều ba mươi pháo nổ đì đùng và mùi khói hương thơm lừng cả một khu phố. Rồi những cái tết sau 1975, gia đình đã sa sút nhiều, những vật dụng trong nhà đã lần lượt ra đi, cái tết buồn hơn nhưng vẫn còn chút hơi ấm gia đình. Thời đó nhà Trâm không còn nấu nổi một nồi bánh chưng, hương vị truyền thống của cái tết Việt.

Chiều ba mươi trên đất Mỹ, Trâm xin phép về sớm hơn một chút, một mình loay hoay nấu mâm cơm rước ông bà. Nhìn ra ngoài trời tuyết rơi trắng xoá khiến Trâm thấy lòng se thắt. Ba Kha đã qua đời nên anh mang di ảnh của ba từ Việt Nam về thờ. Mẹ Kha lâu lâu có qua Mỹ thăm con rồi về chứ không chịu để Kha bảo lãnh. Hai đứa con Trâm đã lên đại học và đều học ở tiểu bang khác. Kha hứa sẽ thu xếp công việc để về sớm cúng rước ông bà. Ngày mai mùng một là thứ bảy. Năm nay tết Việt rơi vào cuối tuần nên có chút thong thả. Hai vợ chồng Alex hứa sáng mùng một sẽ xông đất nhà Trâm theo phong tục người Việt.

Sau lần tình cờ quen nhau trên chuyến bay từ Đà Nẵng vào Sài Gòn, Trâm và Alex vẫn giữ liên lạc và sau này vợ chồng Alex trở thành bạn thân của vợ chồng Trâm. Ngẫu nhiên mà Alex lại sống cùng một thành phố với vợ chồng Trâm. Alex là kỹ sư máy tính, vợ Alex – Sandy - là dược sĩ, nhưng hai đứa con lại theo học hai ngành chẳng liên quan gì đến nghề của bố mẹ. Đứa con trai đầu học ngành hội hoạ, đứa con gái học ngành thiết kế thời trang. Trâm hỏi vì sao không hướng cho con theo ngành của bố mẹ, Alex lắc đầu và đã kể cho vợ chồng Trâm nghe một câu chuyện buồn của gia đình.

Alex sinh ra trong một gia đình có bố là bác sĩ, mẹ là dược sĩ. Anh là con đầu, sau anh là một em trai. Em trai Alex là Henry, từ nhỏ rất thông minh và học hành xuất sắc hơn anh. Ba mẹ Alex lúc nào cũng tự hào về đứa con trai út và luôn hướng cho con theo học ngành Y như bố mẹ. Henry từ nhỏ có năng khiếu hội hoạ và đam mê ngành kiến trúc. Mặc dù ba mẹ lúc nào cũng hướng cho anh học ngành Y, anh tuy không cãi lại nhưng đã nghe một cách thờ ơ, không chút hào hứng. Henry tâm sự với Alex rằng em chỉ thích ngành kiến trúc. Nếu không được học ngành đó thì em không còn đam mê gì nữa. Vậy mà năm cuối cấp, vì áp lực của ba mẹ, Henry đã thi vào ngành Y. Với một học sinh xuất sắc như Henry, việc đó quá dễ dàng.

Sống trên đất Mỹ nhiều năm, Trâm biết trẻ con ở đây đã được nhà trường nhào nặn từ bé về tinh thần tự đo, tự chủ về bản thân. Đôi khi điều đó lại là tự do quá trớn. Vì vậy trẻ con không dể bị cha mẹ uốn nắn từ nhỏ như ở Việt Nam. Ngay cả khi ba mẹ thấy con bị béo phì, đề nghị con ăn kiêng, cũng bị đứa trẻ phản kháng: “ Ít is my body” ( Cơ thể là của con ). Nghĩa là ba mẹ không có quyền có ý kiến. Cũng đừng ngạc nhiên khi thấy nhà có khách nhưng các con không chào hỏi gì, cứ thản nhiên đi thằng về phòng, trong khi ba mẹ nhắc: “ Chào bác đi con ”. Mọi nề nếp gia phong của một gia đình Châu Á đều bị phá vỡ.

Vì vậy chuyện Henry – em trai Alex – chịu nghe lời ba mẹ học nghành Y, mặc dù đam mê ngành Kiến trúc, là một điều lạ. Nhưng ai biết điều đau đớn mà gia đình Alex phải gánh chịu sau đó. Sau khi tốt nghiệp ngành Y, Henry đem mảnh bằng Y khoa về vứt giữa bàn và nói:

-Đó, ba mẹ hãy ôm mảnh bằng này mà vui đi.

Và sau đó thì Henry đã nhảy sông tự tử.

Mặc dù Alex không nói hết được nỗi đau xót của gia đình về cái chết u uất của Henry, nhưng Trâm cũng thấu hiểu sự mất mát này là không gì bì được. Sau đó mẹ Alex đã bị trầm cảm nặng, ba Alex phải theo sát bà, không thì bà sẽ tự vẫn theo con. Alex thì đã quá thấm thía chuyện cưỡng bức các con học theo ý mình, vì vậy con anh muốn học ngành gì anh không cũng động viên, mặc dù đó không phải là ngành anh thích. Anh nói:

-Con cái nó chịu học là tốt rồi. Không ít đứa bỗng nhiên bỏ học nửa chừng, mặc dù học rất giỏi. Xã hội Mỹ này là vậy đó.

Sáng mùng một, sau khi vợ chồng Alex ra về, Trâm và Kha ngồi cắn hạt dưa, bâng khuâng nhớ những ngày tết quê nhà. Trâm cũng cố gắng bày biện phòng khách một cành mai Mỹ, loại hoa hơi giống hoa mai Việt cho có không khí. Cũng có bánh chưng xanh, dưa món, thịt kho tàu…Nhưng vẫn thấy trống vắng quá. Sáng nay hai đứa con đi học xa có gọi về chúc tết ba mẹ. Bọn chúng học ở một tiểu bang nhiều người Việt, nên có biết bây giờ ở Việt Nam đang là ngày tết truyền thống. Rồi học xong chúng cũng sẽ tìm việc ở một tiểu bang khác, sống xa cách ba mẹ là cách lựa chọn của giới trẻ ở Mỹ. Rốt cuộc gia đình nào cũng chỉ còn lại hai người già, có khi là một người già, sống lẻ loi cho đến cuối đời. -/.




VVM.23.01.2025.