Ông mong đợi cuộc thăm viếng khu vườn địa đàng nhiệt đới lần thứ nhì này không phải chỉ vì “Khóa Hội Thảo Quốc Tế Lần Thứ Ba Mươi Mốt Về Độc Tố“ mà ông là một diễn giả, mà còn là những ngày nghỉ sau đó. Ông mong đợi cuộc trèo lên tận đỉnh núi Adam cao 3,000 mét mà từ trên đó có thể thấy quang cảnh toàn hòn đảo vào ngày trời trong. Cách đây mười năm, trong lần thăm hòn đảo này lần đầu, ông đã mất dịp trèo lên đó vì có việc khẩn cấp phải trở về Luân Đôn lập tức sau khoá hội thảo. Nếu may mắn hơn nữa, ông có thể đi câu tại những dòng sông chung quanh Nuwara Eliya, một cấu tạo lạ lùng ở độ cao 2,000 mét mà hiện nay vẫn còn biết bao di tích của các thời đại vua chúa xa xưa.
Khi giáo sư Anderson ra khỏi máy bay, ông có lại cái kinh nghiệm mười năm về trước: Cái nóng khủng khiếp tại sân bay thay thế cho cái lạnh mát trong máy bay. Ông đoán là nhiệt độ phải trên 90 độ F., thay vì nhiệt độ hiện nay vào giữa tháng mười hai tại Gatwick là vài độ trên độ đông đá.
Như được xắp đặt từ trước, Tiến sĩ William Abeywira thuộc Viện Miễn Nhiễm Columbo đón ông tại phi trường. Chiếc xe của viện lúc lắc, nhẩy tung lên khi chạy qua những ổ gà trên con đường dài 21 cây số từ phi trường Katunayke tới thủ đô Columbo. Do kinh nghiện của chuyến đi trước, giáo sư Anderson đã chuẩn bị tinh thần cho sự ồn ào, bụi bậm cùng màu sắc trong thành phố này. Tiếng huyên náo kèm theo tiếng còi nhức óc của khối xe cộ gồm những chiếc xe vận tải khổng lồ xen lẫn với những chiếc xe ba bánh, xe gắn máy, xe đạp và khối người đi bộ khổng lồ, tất cả tràn ngập đường phố làm cho khó phân biệt đâu là ranh giới của đường xe chạy và hè phố. Dù cho đã quen thuộc, ông cũng chóng mặt vì màu sắc trên đường phố, những chiếc quần sarée đủ màu sắc của các bà xen vào những chiếc sarong màu trắng của các ông, những quán bên đường bán trái cây, quần áo, nước uống và nhiều thứ khác nữa. Những rạp chiếu bóng được xây từ thập niên 1930, đến nay đã bong sơn, hồ tô tường đã vụn nát, kính cửa sổ vỡ hay không còn trên khung nữa. Vài rạp bị bỏ hoang hay đã đóng cửa, nhưng phần lớn được sử dụng với mục đích khác như chợ búa, làm nơi trao đổi hàng hoá. Tiếng ồn ào, màu sắc chói mắt cộng thêm cái nóng, bụi bặm và tính khùng điên của viên tài xế khiến ông cảm thấy mệt mỏi. Khi chiếc xe đậu trước cửa khách sạn, Tiến sĩ Anderson cảm thấy nhẹ hẳn người và như trút được gánh nặng.
Viện đã dành cho ông một nơi nghỉ thật thoải mái và đắt tiền, đó là khách sạn Lanka Obeiroi trên con đường Galle, đây là con đường chính và bận rộn của thủ đô. Sau khi tắm rửa và thay bộ quần áo mới thoải mái, giáo sư Anderson cùng Tiến sĩ Abeywira tới quán rượu khách sạn. Trong kỳ trước, viên viện trưởng viện nghiên cứu Abeywira tỏ ra rất thân thiện và hiếu khách, trong khi ngồi nói chuyện, ông đã hỏi giáo sư rất nhiều công việc nghiên cứu về độc chất batrachotoxin, một chất độc tiết ra từ loài ếch mà giống dân da đỏ choco tại Columbia dùng để bôi trên đầu mũi tên. Tiến sĩ viện trưởng tỏ vẻ hài lòng khi ông nói đó là một trong những độc chất nguy hiểm nhất trong thế giới động vật, chỉ một phần tư miligram cũng đủ để giết chết một người. Ông ta còn đặt ra nhiều câu hỏi khác nữa, nhưng giáo sư Anderson cười nói:
- Ông để cho tôi trình bày trong bản báo cáo chứ. Tôi cũng không muốn không chính thức phát biểu trước những điều cần phải nói.
Tiến sĩ Abeywira tỏ vẻ hài lòng và đứng lên từ giã sau khi dặn là xe sẽ tới đón ông tới địa điểm hội thảo vào sáng ngày mai lúc 9 giờ.
Sau khi hút xong điếu thuốc lá, giáo sư Anderson xuống phòng ăn và tại đây ông tìm lại được hương vị của các loại trái cây vùng nhiệt đới. Ông ngây ngất dưới khung cửa sổ, ngắm nhìn bầu trời xanh biếc, sự tương phản giữa sự vội vã của những tia nắng cuối ngày cùng bóng đêm đang lấp ló đó đây và những người dân Tích Lan đi qua với quần áo sặc sỡ đủ màu. Ông có thể hiểu được lý do tại sao nhiều người phương tây tới đây và rồi không muốn rời khỏi hòn đảo này nữa. Ông cũng hiểu lý do tại sao người Ả Rập lần đầu tiên tình cờ khám phá ra đã đặt tên cho hòn đảo này là “Vườn Địa Đàng”. Ông mơ màng và tình cờ chợt tìm ra một điều gì đáng ghi nhớ. Trong chuyến trước ông nhớ lại cái kinh nghiệm chẳng vui chút nào cả.
Ông vui thú suốt mấy ngày hội thảo vì gặp đồng nghiệp khắp nơi trên thế giới. Những nhà khoa học như ông tham gia vào việc nghiên cứu độc chất và những loại thuốc giải độc, một lãnh vực đã làm ông say mê. Tiến sĩ Abeywira trình bày năm loại rắn cực độc tại Tích Lan và viện nghiên cứu của ông đang cố gắng tìm một loại thuốc giải độc cho tất cả năm loại này. Có tất cả 92 loại rắn tại đây, một số lượng đông đảo hơn hẳn tại bất cứ quốc gia nào trên thế giới và dĩ nhiên nước này có nhiều vấn đề. Một ví dụ đưa ra là một công nhân đồn điền cao su bị rắn cắn, khi được chở vào nhà thương thì bác sĩ không biết phải chữa trị như thế nào. Một loại thuốc giải độc cho rắn cạp nong không thể dùng cho nạn nhân bị rắn lục cắn.
Nghiên cứu của tiến sĩ Seneviratne về thuốc giải độc cho loài rắn biển độc gây cho ông chú ý vì nó tương tự như cuộc nghiên cứu của ông về loài ếch độc. Mọi người cũng thích thú khi ông chứng minh chỉ một liều lượng thật nhỏ độc chất batrachotoxin qua vết trầy ở da cũng gây cho nan nhân đau đớn và chết ngay lập tức.
Khi cuộc hội thảo chấm dứt, giáo sư Anderson giã từ các đồng nghiệp. Ông chuẩn bị cho những ngày còn lại trên đất nước này một kỳ nghỉ thật ý nghĩa, tuy vậy tiền lại không có nhiều. Ông quyết định tới một ngân hàng để đổi ít tiền du lịch ra tiền bản xứ. Khi rời ngân hàng, một người theo sát bên ông:
- Chào mừng ông tới hòn đảo đẹp này.
Người lạ là một người Tích Lan, hắn ăn mặc âu phục chứ không quấn sarong như những người khác, nói tiếng Anh với âm điệu bản xứ nhưng chải chuốt.
- Cám ơn. - Ông không biết phải nói gì hơn vì đang bận suy nghĩ. Vào mười năm trước đây, cũng người này đã tới làm quen với ông cũng tại nơi này nhưng hắn ta lại không nhận ra ông. Ông nghĩ là dưói mắt người Tích Lan, những người Âu Châu đều giống nhau, vả lại khi vợ ông chết cách nay tám năm, ông phải nuôi con nên thay đổi rất nhiều. Tóc ông bạc và nặng cân hơn. Ông biết là người này sẽ nói câu gì kế tiếp.
- Ông không nên đổi tiền ở ngân hàng, tôi sẽ đổi cho ông theo một giá thật cao.
- Bao nhiêu?
- Tôi có thể đổi 30 rupees một bảng Anh. Ngân hàng chỉ đổi với giá 23 hay 24 thôi.
Câu chuyện tiếp tục như đã nói vào mười năm trước.
- Tại sao ông có thể đổi như vậy được, ông chịu thiệt hại như vậy sao?
- Không, tôi không thiệt gì cả. Này nhé, tôi dùng tiền ngoại quốc này đi mua tại cửa hàng miễn thuế, ví dụ một chai Whiskey là mười hai đồng rồi bán lại với giá 24 đồng, như vậy là lời một trăm phần trăm.
- Tôi vừa đổi tiền du lịch rồi, tôi không cần thêm tiền nữa.
- Ông có tiền đô la Mỹ không? Tôi phải trả bằng tiền đô tại cửa hàng miễn thuế. Tôi cần đô la Mỹ.
- Có chứ, nhưng không nhiều. Tôi chỉ có khoảng năm trăm đô la thôi.
Nét mặt người đàn ông Tích Lan rạng rỡ hẳn lên:
- Có tiền nhỏ không. Tiền nhỏ có giá hơn. Nhưng không sao, nếu là giấy 50 hay 100 cũng được.
- Toàn là giấy năm, mười và hai mươi đồng thôi.
- Thật là tuyệt. Vậy ông có muốn đổi không? Tôi sẽ đổi cho với giá 12,500 rupees thay vì giá chính thức là 10,000 rupees, vậy là ông có lời 2,500 rupees đó.
- Được, tôi bằng lòng. Mình sẽ gặp nhau tối nay tại khách sạn Renuka nhé.
- Không được, ở đó đông người quá. Ông ở tại khách sạn Renuka à?
- Không, khách sạn Oberoi.
- Vậy thì tôi sẽ gặp ông tối nay lúc 7 giờ tại đường 22 nhé, phía bên kia đường, đối diện với cửa chính của khách sạn Lanka Oberoi, ông biết chứ?
- Tôi biết. Gặp ông lúc 7 giờ.
- Được rồi. Nhớ bỏ tiền vào trong phong bì nhỏ màu nâu bán tại tiệm ngay cạnh khách sạn nhé.
Giáo sư Anderson nhìn theo người đàn ông khuất dần trong đám đông. Vài người dân bản xứ cũng mặc âu phục, nhưng phần đông cuốn những chiếc sarong hay seree màu sắc sặc sỡ. Ông chậm bước xuôi theo con đuờng đông đúc rồi vào một tiệm ăn. Gọi một ly cà phê đá, châm điếu xì gà nhỏ, ông mung lung suy nghĩ.
Thật lạ lùng người đàn ông đó không nhận ra ông. Rõ ràng hắn và tên tòng phạm quanh quẩn tại các ngân hàng để lừa gạt du khách với sự rèn luyện thuần thục và khéo léo. Chắc là chúng đã lừa được nhiều người trong mỗi mùa du lịch.
Ông nhớ lại vào mười năm trước, chúng đã lừa ông 100 đô la một cách khéo léo. Không sao quên được chi tiết lừa đảo này, dù cho không chấp nhận hành vi vô luân này nhưng ông cũng phục tài nghệ của chúng. Đó là cách lừa thật đơn giản. Khi mang tiền tới điểm hẹn, tên đó với nét mặt rạng rỡ giới thiệu cho ông một tên thứ hai, thấp lùn, quấn chiếc sarong :
- Đây là xếp của tôi.
Họ bắt tay.
- Ông có mang theo tiền không?
- Có đây. - Ông đưa chiếc bao thư màu nâu đựng tiền không dán cho tên thứ nhì. Hắn đếm cẩn thận rồi bỏ lại vào bao thư, dán lại rồi viết bên ngoài: $100 = 3000 rupees. Hắn đưa bao thư cho tên thứ nhất, miệng nói:
- Đã kiểm soát kỹ chưa?
- Có, đủ rồi. – Nói xong hắn trao chiếc bao thư lại cho tên thứ nhì. Ông vội hỏi:
- Thế tiền rupee của tôi đâu?
- Ông sẽ lấy sau. Mình đứng ở đây đã quá lâu, có thể cảnh sát đang lưu ý. Bây giờ ông về lại khách sạn với chiếc bao thư này rồi trở lại sau 10 phút. Chúng tôi sẽ mang tiền rupee cho ông trong một bao thư khác, lúc đó mình sẽ trao đổi bao thư rất nhanh.
- Nhưng làm sao tôi biết trong bao thư của ông có tiền?
- Không sao. Bao thư của tôi sẽ không dán, ông có thể đếm lại thật nhanh.
Giáo sư lấy lại bao thư đựng tiền rồi quay trở về khách sạn. Mười phút sau quay lại chỗ hẹn. Cả hai tên chẳng thấy xuất hiện dù ông đợi cả nửa tiếng. Sau đó ông trở lại khách sạn và mở bao thư ra. Nhưng thật lạ lùng, chiếc bao thư bây giờ chỉ chứa toàn giấy báo có khuôn khổ như tờ giấy bạc. Phải mất vài phút ông mới nghĩ ra cách lường gạt của chúng. Dĩ nhiên cần có hai người mới thực hiện được sự lừa gạt này: Tên thứ hai đưa lại chiếc bao thư đựng 100 đô la cho tên thứ nhất để yêu cầu coi lại. Với tài nghệ nhanh nhẹn, tên thứ hai tráo lại với chiếc bao thư khác chứa giấy vụn, trên cũng đề câu $100 = 3,000 rupees y hệt chiếc bao thư kia. Một điều chúng cũng cần biết là có bao nhiêu tiền lẻ để chuẩn bị số tờ giấy cho khách khỏi nghi ngờ. Thật là đơn giản và không biết bao nhiêu du khách đã bị lừa do mánh khóe này.
Giáo sư Anderson gọi thêm ly cà phê đá thứ nhì. Khi điếu thuốc thứ nhì cũng đã tàn, ông trở về lại khách sạn không quên mua chiếc bao thư nhỏ màu nâu tại tiệm bên cạnh. Ông lấy và đếm đủ 500 đô la ra rồi bỏ vào.
Vài phút trước 7 giờ, ông rời khỏi khách sạn, băng qua đường Galle để tới đường 22, một con đường chạy thẳng ra biển. Chẳng bao xa, tên lừa đảo bước ra từ một cửa hàng và cũng vẫn là xếp của hắn ra gặp ông, vở kịch lại tái diễn đúng như đã xẩy ra vào mười năm trước.
Sau đó tên “xếp” nói với ông:
- Trở lại sau 10 phút để lấy tiền rupee nhé.
- Được rồi, tôi sẽ trở lại sau mười phút.
Trở về khách sạn, mở chiếc bao thư màu nâu ra và thấy toàn giấy vụn. Ông cười gằn, vất tất cả vào thùng rác rồi xuống phòng ăn.
Giáo sư Anderson có những ngày nghỉ thật thú vị. Đỉnh ngọn Adam thật tuyệt vời hơn cả những gì trong cuốn sách chỉ dẫn du lịch quảng cáo. Ông đã lên tới tận đỉnh để ngắm mặt trời mọc, ngắm bóng ngọn núi in trên những đám mây hay đám sương sớm ban chiều phía dưới. Quang cảnh phía đông và tây cũng như biển ở cả hai phía thật đẹp. Cố đô Polonnaruwa và Anuradhapura thật đáng ghi nhớ, những vườn thảo mộc tại Hakdagla trồng thật nhiều loài kỳ hoa dị thảo.
Ông là khách của tiến sĩ Abeywira và phu nhân trong buổi tiệc cuối cùng tại Columbo. Cả ba người con của ông bà đều tham dự. Ông hứa sẽ trở lại vào kỳ hội nghị tới.
Khi chiếc máy bay chạy trên phi đạo và cất cánh giáo sư Anderson thoải mái nhìn qua cửa kính, hàng cây cọ trồng dọc theo bãi biển mờ dần. Chiếc phi cơ bay về phía mặt trời ở hướng tây. Nghỉ lại, đây là một cuộc hội thảo đầy bổ ích, ông có dịp làm quen với những nhà khoa học nổi tiếng trên thế giới như giáo sư Julo Asquinas đang làm việc ở viện y khoa nhiệt đới tại Bologa, trong tương lai ông này chắc sẽ giúp rất nhiều cho công cuôc nghiên cứu độc chất batrachotoxin mà ông đang làm. Ngoài ra ông cũng hài lòng với những ngày nghỉ mà bao năm ông mơ ước.
Ông móc túi lấy ra mảnh giấy báo cắt ra từ tờ Sunday Observer, một tờ báo Anh ngữ tại Tích Lan. Tiến sĩ Abeywira đã đưa cho ông tờ báo này để lưu ý ông. Đây là lần thứ nhì ông đọc bản tin:
Sở cảnh sát lúng túng trước cái chết của hai người là Razeen Ibrahim và Gopal Vettinuram. Hai người này chết vào tối thứ Sáu qua tại một căn nhà đường 22. Các bác sĩ tại bệnh viện Columbo General Hospital xác định hai người này chết là do một loài động vật thật độc cắn phải mặc dù trên thân thể của họ không có vết cắn. Ibrahim và Vettinuram là hai kẻ có những thành tích tội phạm từ lâu về lừa gạt cũng như ăn cắp xe hơi, nhưng vì chưa có đủ bằng chứng để bị đưa ra toà. Một cuộc khám nghiệm tử thi sẽ được thực hiện vào ngày thứ Hai.
Giáo sư Anderson cất mảnh giấy vào túi áo. Ông để ý hai tên này có thói quen cắn móng tay khi có quyết định nhanh để tránh cảnh sát bắt trong khi đang hành nghề lừa đảo.Thấy thói quen này, một ý nghĩ trả thù lóe lên. Ông tự hỏi không hiểu chúng có nghi ngờ khi đếm những tờ giấy bạc ẩm ướt mà ông đã thấm chất độc tố cực độc vào không.
Giáo sư Anderson ngồi thoải mái trên ghế, đầu tựa vào tấm kính và chìm vào giấc ngủ khi tiếng động cơ của chiếc máy bay rầm rì bên tai. Phía trên đầu là chiếc ngăn chứa những chiếc xách tay nhỏ. Ông để những chiếc lọ chứa độc chất batrachotoxin trong đó. Tại sân bay ở Tích Lan, một người phu bất cẩn ném mạnh chiếc xách tay xuống đất khiến những chiếc lọ bị bể ra và bây giờ chiếc máy bay rung chuyển làm chất độc trong những chiếc lọ rỉ ra. Nó chẩy xuống thành những giọt nhỏ lên má giáo sư, lan xuống những vết cắt nhỏ tại góc miệng mà sáng nay ông vô tình làm đứt. Và khi phi cơ hạ cánh, khi hành khách đã xuống hết người ta phát giác ra là giáo sư Anderson đã chết và nguyên do từ một độc chất của một loài loài động vật cực độc mặc dù trên thân thể của ông không có vết cắn nào.