THAY LỜI DẪN
Lược Sử Văn Nghệ Việt Nam của nhà văn Thế Phong gồm 4 tập, đã được in 2 tập: Tập 1 NHÀ VĂN TIỀN CHIẾN 1930-1945, bản in ronéo đầu tiên ở Sài Gòn gồm 100 cuốn vào năm 1959. Bản tái bàn cuả NXB Vàng Son in 3000 cuốn ở SàiGòn vào năm 1974. Bià cuả họa sĩ Nguyễn Trọng Khôi được chụp in lại trên đây , do một trong những NXB vô danh ở Mỹ in lậu ở California sau 1975 và Tập 4 : Tổng Luận đã chuyển ngữ A BRIEF GLIMPSE AT THE VIETNAMESE SCENE (from 1900 to 1956) và 2 tập 2 & 3 nói về văn nghệ kháng chiến, nhà văn hậu chiến 1900 - 1956 (văn nghệ quốc gia hay văn nghệ của VNCH) chưa bao giờ công bố trên văn đàn, mặc dù đã được lưu trữ tại một số thư viện TRONG NƯỚC (Thư viện Khoa học Tổng hợp Tp. HCM, Thư viện Khoa học Xã hội Tp.HCM) và NGOÀI NƯỚC như ở Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ, Boston, Ithaca-New York, SIU, IOWA vv..hoặc ở Pháp, Đức, Úc..
Newvietart xin đăng tải lại một vài nhận định báo chí, văn giới về Lược Sử Văn Nghệ khi xuất bản lần đầu vào 1959 :
a) Tạp chí Bách Khoa:" ..Ông TPhong vừa cho ra một loạt phê bình văn học. Đó là ai nấy đều mong đợi, bởi vì sau một thời gian khá lâu chưa ai
tiếp tay Vũ Ngọc Phan, chốc đà mười mấy năm trời' đúng một thời gian luân lạc cuả cô Kiều...."( số 56, năm 1959, TRIỀU ĐẨU)
b) Ông TP một văn nghệ sĩ thủ đô vừa viết xong và cho phát hành cuốn" Lược sử Văn Nghệ VN", trong đó tác giả phân tích các tác phẩm của văn
nghệ sĩ ra đời từ 1930 đến 1945. Cuốn này được quay ronéo có bầy bán tại các hiệu sách. Sách này tác giả đã tốn nhiều công phu và sưu
tầm khá nhiều tài liệu để biên soạn (nhật báo Ngôn Luận ngày 8/9/1959- Saigon).
c) ..." Điều thứ ba, sự phán đoán của anh hợp với ý tôi, phần nhiều các tác phẩm anh khen, thì tôi cũng nhận là có giá trị; những tác phẩm anh
chê, thì tôi cũng không thích. các nhận xét cuả anh về Triều Sơn, Hoàng Thu Đông đều đúng cả. Đó là nhận xét của tôi; tôi phải phục sức đọc,
sức viết, sức nhớ cuả anh. Cảm ơn anh một lần nữa.." (Nguyễn Hiến Lê, 12/3c Kỳ Đồng, Saigon 3- ngày 17/4/1959)
d) Nguyệt san Sinh Lực (1959, Chủ nhiệm: Võ văn Trưng- Saigon) :"...Hôm nay Thế Phong còn có thể ít nhiều nhầm lẫn-nhưng với khả năng rạt rào
của tuổi trẻ, với lòng yêu văn nghệ đến đam mê, anh còn nhiều bước đi ngạc nhiên trên lãnh vực nà để đào xới lại mảnh đất hoang phê bình
cảo luận bị bỏ quên trong nhiều năm. Sự cố gắng của Thế Phong là sự cố gắng hoàn toàn văn nghệ, cuả một người văn nghệ biết mỉm cười trong
sự nghèo túng bản thân mình để hiến chiều dài cho văn học sử. Cũng có đôi khi ta thấy Thê Phong phê phán có vẻ độc tài và tàn nhẫn nữa;
nhưng ta vẫn thấy rằng: đó là sự độc tài và tàn nhẫn không có tính cách tự cao, tự đại; hoặc dao to búa lớn; (trái lại) nhiều tinh thần
thẩm mỹ, dĩ nhiên là có chủ quan. Ta quí sự nhận thức ấy- vì anh dám nói- cũng như người khác có dám cãi lại hay không là quyền của họ.."
(Lê Công Tâm - Thanh Hữu, nhà văn).
e) Le Journal d'Extrême Orient (Saigon, 3 Décembre 1959)" Lược sử văn nghệ Việt nam-Hisotire de la littérature vietnamienne".
Histoire sommaire de la littérature vietnamienne, òu l'auteur passe en revue les écrivains d'avant guerre 1930-1945. Cette oeuvre est
tirée sur ronéo avec une tirage limitée. Fruit de minuitieuses recherches et d'une riche documentation donnée une vue d'ensemble des
diverses époques et tendances des écrivains, des poètes du Vietnam, de leurs oeuvres, d'une littérature riche de plusieurs millénaires
suivant le cours de l'Histoire. C'est une synthèse remarquablement coordonné annotée parle critique éminent qu'est ThếPhong
qui l'achevée dans les derniers jours de Juin 1956
(đã in ở cuối sách "LSVNVN-Nhà văn tiền chiến 1930-1945 của ThếPhong, NXB Vàng Son Saigon 1974)...
Từ Vũ và Việt Văn Mới Newvietart chân thành cảm tạ nhà văn Thế Phong đã cho phép đăng tải toàn bộ tập Lược Sử Văn Nghệ, tài liệu không thể thiếu cho những
người yêu chuộng văn chương nghệ thuật Việt Nam, đặc biệt cho những người muốn khách quan sưu tra sử liệu .
KỲ THỨ 24
[ QUỐC GIA VN VÀ MIỀN NAM (VNCH) ]
Giai đoạn kháng chiến, từ 1945 đến 1950 Việt Nam độc lập được gần một năm. Tiếp, Pháp chiếm lại Hà Nội, (ngày 19 tháng 12 năm 1946) cho dù đảng phái Quốc hay Cộng đều bỏ phù hiệu riêng, đoàn kết trong danh xưng kháng chiến chống thực dân tái xâm lăng. Suốt chín năm (1945–1954), thì kháng chiến ở bốn năm về sau, đã hao hụt thực chất; Mác xít ra mặt lãnh đạo – và cho đến 20–7–1954, phân chia đất nước, danh xưng toàn dân kháng chiến mất hẳn ý nghĩa. Song trên bình diện văn nghệ, ý thức toàn dân kháng chiến tạo được nền văn học có chiều sâu và rộng.
Giai đoạn văn nghệ phân hóa, văn nghệ Mác xít – theo hẳn lối sáng tác được chỉ huy, nhất là sau 1954 miền Bắc là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Còn Quốc Gia và miền Nam (VNCH) văn nghệ chỉ là vườn hoang, mọc đủ loại thảo mộc. Trong tập này, với người khe khắt cho quá nhiều – người dễ dãi cho chưa đủ. Với tôi, vẫn chỉ là bắt voi bỏ giọ, và tất nhiên chủ quan; thiếu sót tất nhiên không thể tránh. Nhìn vào những người viết sách nhận định văn học trước như Vũ Ngọc Phan kết luận cuối trang sách phê bình văn học, có đoạn:
“... Trước hết, bộ sách này là bộ phê bình văn học như tôi đã nói nhiều lần, vậy không lẽ gì bắt buộc soạn giả phải nói đến tất cả nhà văn. Sau nữa, trong khi tôi viết những trang phê bình về thơ, có nhiều thi sĩ chưa có quyển thơ nào xuất bản, về kịch hay tiểu thuyết, có nhiều nhà văn chưa có sách biên khảo, chưa có kịch hay tiểu thuyết ra đời. Như vậy, biết căn cứ vào đâu cho chắc chắn? Rồi lại những nhà văn chính trị tuy đã có văn thơ in trên báo chương hay xuất bản thành sách, cũng không có trong bộ sách này, vì một lẽ mà ai cũng hiểu khi nhớ đến chế độ hiện hành về sách báo. Còn những nhà văn chuyên viết những sách Pháp văn thì tôi cho là không phải nói đến trong văn học Việt Nam. (...) Tôi xin nhắc lại đây một lần nữa rằng bộ Nhà Văn Hiện Đại này chỉ là một bộ phê bình văn học, không phải là bộ văn học sử. Trong văn học sử, người viết cần phải xét rất kỹ ảnh hưởng thân thế nhà văn đến văn phẩm, rồi lại phải định rõ cả sự liên lạc của nhà văn nọ với nhà văn kia đồng thời hay khác thời đại. Nếu không đủ được những điều cốt yếu ấy, để định rõ phong trào văn học, thì dù có văn học sử đi nữa, người ta cũng chỉ coi là một mớ sử liệu...” (1)
Thời gian này tác phẩm viết bằng Pháp ngữ như Phạm Duy Khiêm với Légendes des terrres sereines và Nam et Sylvie; hoặc Nguyễn Tiến Lãng Le Chemin de la Révolte; Phạm Văn Ký: Frère de Sang, Celui qui régnera; Cung Giụ Nguyên Le Fils de la baleine – sử học Lê Thành Khôi với Le Vietnam, Histoire et Civilisation v.v..., không nói đến, cũng như lý do mà ông Vũ Ngọc Phan đề cập tới ở trên. Đến nhà chính trị văn sĩ Hồ Hữu Tường với Phi Lạc sang Tàu, Phi Lạc bỡn Nga, ... thì cũng vậy. Cả đến loại sách trinh thám kỳ tình, kiếm hiệp, phong thần, phỏng dịch chắp vá được gọi là tác phẩm văn học – chúng tôi xin phép không nói tới. Rõ hơn là Phạm Cao Củng có mặt từ tiền chiến với Kỳ Phát; hoặc truyện Người Nhạn Trắng cũng thế v.v... Tác giả Hoàng Như Mai, thời gian 1950–1954 trong kháng chiến; chúng tôi đưa vào cuốn này; vì vở kịch Tiếng Trống Hà Hồi đặc sắc được in trình diễn ở Hà Nội. Có thể nói điển hình bộ môn kịch là Tiếng trống Hà Nội. Bước sang bộ môn biên khảo, đưa Duy Sinh vào một tiết, như một điển hình cho lớp người viết biên khảo; cũng vẫn chủ quan, so với Diên Hương, Thu - Giang - Nguyễn - Duy - Cần; Khi đối chiếu lại thì, Duy Sinh không thể giá trị bằng hai nhà biên khảo vừa nêu danh.
Trở lại bình diện văn nghệ hậu chiến, tập 3 gồm trên dưới một trăm nhà văn; chọn ba mươi điển hình nói tới cặn kẽ; so với người khác viết tóm lược. Cũng vẫn chủ quan thô thiển và tự nhận thiếu sót. Bởi còn nghĩ xa hơn rằng: "không thể viết đầy đủ các nhà văn mình muốn đưa vào một quyển, thay vì mỗi nhà văn điển hình phải viết hẳn một cuốn nói về họ".
Nên coi những trang viết này chỉ là chữ viết (écriture) trong bộ sách này, và không là văn học (littérature); như quan niệm của Michel Buto (2). Lẽ trang viết có ý nghĩa tổng quát hơn. Còn nữa, bộ sách này chỉ là kết quả viết về tác phẩm các tác giả mà tôi đã đọc, đưa ra nhận xét của riêng tôi; giúp cho nghề tôi nuôi nghiệp (littérateur). Từ 1950 đến 1956, biến chuyển thời cuộc tác động đích thực vào đời sống văn học mà nhà văn sống trong đó. Ở miền Bắc của Quốc Gia Việt Nam (1950 – 1954) nhóm Thế Kỷ tạo thành một Triều Đẩu, qua những mảnh đời phóng sự hồi cư nóng bỏng, hàng ngày phải đối phó với đời sống, tạm gọi độc lập trong lồng son Liên Hiệp Pháp. Còn thêm nhà văn điển hình như Hoàng Công Khanh với Mẹ Tôi Sớm Biệt Một Chiều Thu, (truyện), Bến Nước Ngũ Bồ (kịch dã sử), Nguyễn Minh Lang, ngọn bút tài hoa của văn chương lãng mạn mới, qua Gái Hà Nội, Nước Mắt Trong Đêm Mưa, Cánh Hoa Trước Gió (2 tập)... Hai nhà văn này, chúng tôi đề cập ở Chương 3 (tiết 2 và 4) – nhưng tập 3 này xuất bản ở Sài Gòn vào 1959 (Loại sách Đại Nam văn hiến trong nhà xuất bản Huyền Trân, Nhật Tiến chủ trương) bị kiểm duyệt bỏ trọn tiết. Bản in lại lần thứ hai in lại đầy đủ; nhưng trong lần này vẫn phải để trống phần phân tích; vì lý do tầm thường – không kiếm được bản tái bản vào 1973. Hai nhà văn điển hình khác nói đến trong Chương 3 là Thanh Hữu, Văn An. Về nhà thơ điển hình: Đinh Hùng, Nguyễn Quốc Trinh... Viết tóm lược nhà thơ: Hoàng Phụng Tỵ, Song Nhất Nữ, Băng Sơn, Vân Long, Trần Nhân Cư... Bình diện văn nghệ miền Trung (Quốc gia Việt Nam) vào giai đoạn này, nhà thơ điển hình được nói đến : Huyền Chi (nữ), Hoài Minh, Thanh Thuyền. Viết tóm lược các nhà thơ: Hồ Đình Phương, Huyền Viêm, Thế Viên...
Bình diện văn nghệ miền Nam (Việt Nam Cộng Hòa), nhà văn điển hình: Nguyễn Thị Vinh, Linh Bảo (nữ), Triều Lương Chế, Phạm - Thái - Nguyễn - Ngọc -Tân Phạm Thái kèm tên thật Nguyễn Ngọc Tân, phân biệt với một Phạm Thái khác), Chấn Phong Hư Chu. Viết tóm lược: Tùng Long (nữ), Quỳnh Hương (nữ), Thiếu-Mai-Vũ-Bá- Hùng (nữ), Minh Đăng Khánh, Tạ Quang Khôi, Tường Hùng, Kiêm Minh, Nguyễn Hoài Văn, Uyên Thao, Tô Kiều Ngân... Một số nhà văn khác nổi tiếng sau giai đoạn 1956 như Võ Phiến chưa có tác phẩm xuất bản. Phải kể thêm trong số đó: Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Đình Toàn, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Trùng Dương, (nữ), Nguyễn Thị Hoàng, Túy Hồng (nữ), Võ Hồng, Thế Uyên, Tuấn Huy, Thế Nguyên, v.v... của Đệ nhị Cộng hòa (sau 1963 trở đi). Riêng về phóng sự tiểu thuyết: Hoàng Hải Thủy với Vũ Nữ Sài Gòn (3), Duyên Anh qua bút hiệu Thương Sinh, Toàn Phong với Đời Phi Công, chúng tôi chưa có cơ hội nói đến, và nhờ Vũ Ngọc Phan giúp giải vây sự khốn đốn; ... vậy không lẽ gì bắt buộc soạn giả phải nói đến tất cả nhà văn... Thêm nữa, khoảng thời gian viết đến lúc in ra (dầu cho là in ronéo-typé cách vài năm). Do đó, chưa kịp nói đến Võ Phiến (Chữ Tình), (4) Thế Uyên, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Toàn Phong , Cung Trầm Tưởng, Nguyễn Đình Toàn, Thế Nguyên, Văn Quang (Thùy Dương Trang), Huy Trâm, Phạm Nguyên Vũ, Túy Hồng (nữ), Lê Vĩnh Hòa, Nhật Tiến, (văn) v.v... – Về thơ: Thái Thủy, Tô Thùy Yên, Tôn Thất Quán, Hoàng Khanh, Cung Trầm Tưởng, Cao Mỵ Nhân, Viên Linh, Trần Dạ Từ (khi ấy ký Hoài Nam), Hoài Khanh, Hà Yên Chi v.v... và v.v... (5).
Giá trị văn chương tiền chiến Tự Lực văn đoàn, có cả Lê Văn Trương, (tập một: Nhà văn tiền chiến), tiếp đến giá trị văn chương lửa kháng chiến; sau là hậu chiến. Đọc Bướm Trắng, Nửa Chừng Xuân. Mấy Vần Thơ, Gửi Hương Cho Gió, Vang Bóng Một Thời, Thằng Kình, Ngoại Ô, Giông Tố... không nhìn thấy đầy đủ hình tượng sống cuộc sống hôm nay được thấy trong: Gió Bấc, Truyện Năm Người Thanh Niên, Trên Vỉa Hè Hà Nội, Cánh Hoa Trước Gió, Trại Tân Bồi, Nhìn Xuống, Điệu Đàn Muôn Thuở, Đêm Giã Từ Hà Nội, Sợ Lửa, Rừng Địa Ngục.... Văn nghệ là sản phẩm phản ánh thời đại, nên Kim Vân Kiều có hay đến mức thượng thừa – cũng chưa thể đại diện cho một khoảng thời gian không tiếp nối. Tác phẩm Nguyễn Du mới chỉ nói lên đầy đủ về xã hội phong kiến giao thời mà tác giả Kim Vân Kiều sống – đủ một số điều tương đồng hiện cảnh. Không thể nói đến Kim Vân Kiều là đủ điều tất yếu hình tượng sống lịch sử. Tác phẩm của Karl Marx, S.Freud cũng bị vượt qua, hiện nay vẫn cần khối óc siêu việt Oppeheimer, Einstein, Gandhi, JP Sartre v.v...
Phải hiểu được rằng: lịch sử một nước như lịch sử văn học, luôn theo đà diễn tiến, tiếp nối không ngừng. Nói khác đi, sử học, văn học sử một nước
không thể cắt quãng, cũng không tùy thuộc vào lập luận một phe nhóm nào để định giá trị vĩnh viễn. Rất cảm phục lập luận của Vũ Ngọc Phan dẫn
trên kia; được gọi văn học sử, phải xét kỹ ảnh hưởng thân thế nhà văn đến tác phẩm, định rõ liên hệ (chữ dùng: TP) giữa nhà văn này với nhà
văn nọ, định rõ phong trào văn học. Càng rõ hơn, được gọi văn học sử, ít ra phải làm được một bộ sách Lịch Sử Văn Chương Ngôn Ngữ Pháp
(tạm dịch Histoire des littératures de la langue française) (6) do nhóm chủ trương gồm 209 giáo sư văn học thực hiện bộ sách vĩ đại ấy.
Cảm ơn số bạn giúp tài liệu, ý kiến, khích lệ, động viên, khi tôi khởi sự viết bộ sách này. Như họa sĩ Đinh Cường cởi áo, ngồi xệp trên sàn gác
căn nhà trọ cùng tôi chia giúp những trang sách in ronéotypé xếp thành tập vào 1959, ở hẻm nhà thờ Lý Thái Tổ (Chợ Lớn). Uyên Thao mượn
cho chiếc máy chữ, có lịch sử sản xuất cùng thời kỳ Tây hạ thành Hà Nội. Nguyễn Quang Tuyến nuôi ăn ở hàng năm, tôi ra thư viện đọc sách.
Cùng với nhiều thư tình đầy tâm huyết người - tình - bậc - chị đến từ Hong Kong (nàng gọi Cảng Thơm) khích lệ người - em - bạn -
tình miệt mài với chữ và nghĩa. Lại không thể quên bạn vong niên Phan Văn Thức cấp tiền ăn sáng, giấy stencil và thẩm phán Đào Minh Lượng,
khi là sinh viên Trường Luật mua bánh mì dùng bữa trưa để tôi ngồi lì ở Thư Viện Quốc Gia làm mọt sách. Cũng không thể quên chịu ơn André Gide,
qua cuốn sách viết phê bình về Fédor Dostoievskï (7) và cả Textes philosophiques của V.Biélinsky (8) nữa.
THẾ PHONG
♣
PHẦN THỨ NHẤT
MIỀN BẮC 1950 – 1954
(Quốc Gia Việt Nam)
MIỀN BẮC 1950 – 1954
(Quốc Gia Việt Nam)
CHƯƠNG NHẤT
Tiết I.
KHÁI QUÁT VỀ CÁC NHÀ VĂN TRONG NHÓM THẾ KỶ. I. HOÀN CẢNH CHÍNH TRỊ. Nhóm Thế Kỷ xuất hiện ở Hà Nội vào thập niên năm năm mươi. Tạp chí Thế Kỷ cơ quan diễn đạt tư tưởng của nhóm. Gồm các cây bút: Bùi Xuân Uyên (Chủ nhiệm), Trúc Sỹ, Triều Đẩu, Phan Phong Linh, Tạ Tỵ, Nhã Ái (nữ). Nhã Ái sau đổi Xuân Nhã. Giữa hoàn cảnh nô lệ thực dân Pháp, Quốc Gia Việt Nam độc lập trong lồng son Liên Hiệp Pháp; ngoài kia kháng chiến đi vào giai đoạn phân hóa. Dân chúng trở về Thành, sống cảnh cá chậu chim lồng ; hoàn cảnh xã hội tác động vào tác phẩm của người văn nghệ ý thức. Nhóm Thế Kỷ tụ tập được một số nhà văn chân tài, về phóng sự tiểu thuyết có Triều Đẩu; truyện ngắn trình bày hoàn cảnh sống xã hội sâu sắc Tạ Tỵ; truyện dài Trúc Sỹ, truyện tâm lý tình cảm tiến bộ Ái Nhã, đến thơ Phan Phong Linh hoài cổ – Tất cả tạo thành nhóm có thực lực, uy tín trong văn giới. Chính tạp chí này đăng truyện ngắn đầu tay nhà văn Toàn Phong, sau ông trở thành giáo sư lỗi lạc về ngành không gian NASA. Trước khi giới thiệu nhà văn, thơ điển hình Triều Đẩu, Trúc Sỹ, Phan Phong Linh, và tiết sau chúng tôi nói đến số nhà văn viết sơ lược. . BÙI XUÂN UYÊN. Sinh 1922 tại Hà Nội. Còn ký Hi Di. Bùi Xuân Uyên viết bình luận, nghiên cứu văn học, chính luận 1954 là tác giả truyện dài Luyện Máu (Ký Hi Di) đăng nhiều kỳ trên nhật báo Tự Do ở Sài Gòn. . XUÂN NHÃ. Tên thật : Nguyễn Thị Mến. Sinh 1928 ở Hà Nội. Vợ của Bùi Xuân Uyên, bài đăng trên Thế kỷ ban đầu vào 1950 ký Ái Nhã. Truyện ngắn tình cảm, tâm lý sâu sắc, chưa xuất bản thành sách. . TẠ TỴ. Sinh 1922 ở Hà Đông. Tốt nghiệp Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương ở Hà Nội. Họa sĩ lập thể được giải thưởng của Phòng Triển lãm Duy Nhất năm 1942–1943 ở Hà Nội (Salon Unique), giải thưởng của Báo Chí Việt Nam tại Triển lãm Hà Nội vào tháng 8.1946. Tạ Tỵ còn viết truyện ngắn, làm thơ, đăng trên các tạp chí Thủ đô, kể cả Thế Kỷ. Truyện ngắn viết rất sâu sắc, như Cẩm Nhung (trên báo Đời Mới, Sài Gòn), Những Đứa Trẻ Mất Dạy (Đất Đứng, 1956), Thằng Bé Đánh Giầy (báo Sinh Lực, Hà Nội)... Truyện ngắn xã hội, mổ xẻ nội tâm, nhiều nhất là tự sự kể về đời sống tác giả, qua tác phẩm. Sau 1955, viết phê bình văn học rất sáng giá. Đã xuất bản: Những Viên Sỏi (tập truyện, 1962), Yêu và Thù, 1970), Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ, phê bình, 1970), Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay 1972), Cho Cuộc Đời, thơ 1971) v.v... . HOÀNG CHU NGẠC. – Đứng trong nhóm Thế Kỷ, qua cuốn truyện dịch Emily Brontës, Wuthering Heights. (Trên cao gió lộng; Hà Nội, 1953). Sự thâm nhập văn hóa giữa các nước là cách làm giầu cho nền văn học. Như Lê Đình Chân với tác phẩm dịch của S.Maugham, bản Việt ngữ Một Đêm Trăng; hoặc Giản Chi qua Con Người Cô Độc của Lỗ Tấn; còn Hoàng Chu Ngạc dịch chưa thoát, ngôn từ trúc trắc; có lẽ chú trọng dịch sát nguyên tác. TIẾT 2. TRIỀU ĐẨU (1909–198?) . Tiểu Sử : Tên thật Nguyễn Văn Phùng. Sinh 14–7–1909 ở Bắc Ninh. Học qua Trường Bưởi, công chức thời Pháp. Viết văn từ tiền chiến, chỉ 1950 mới lao vào nghiệp văn cách dấn thân. Ông qua đời ở Sài Gòn sau năm 1980.Lỡ (Sài Gòn, 1957), Năm Chương Tự Ngôn (Sài Gòn 1968), Men Rượu Đế (Sài Gòn 1969)…v.v… . Khuynh Hướng : Triều Đẩu có giọng văn hài hước, châm biếm sâu độc, về thói hư tật của xã hội đương thời, qua nhãn quan phán xét tinh tế của tác giả. Tác phẩm đầu tay Trên Vỉa Hè Hà Nội, khi xuất bản gây được dư luận trong văn giới cách rộng rãi ở Thủ Đô. Truyện dài Tranh Tối Tranh Sáng chưa xuất sắc; bước sang Lá Thư gồm tạp bút, phê bình văn học, hồi ký, chỉ hồi ký viết đặc sắc ở điểm chân thực, bài phê bình Đồi Thông Hai Mộ, theo lối viết phóng túng, (critique spontanée) lập luận thiếu vững chắc, nệ tính cảm. . Phân Tích Tác Phẩm : Trên Vỉa Hè Hà Nội ra đời ấy là xã hội đầy cuồng loạn, bát nháo. Người Hà Nội cũ lục đục hồi cư, mỗi người một lối sống, nghĩ, cảm riêng. Tình anh em co dãn, đạo lý khủng hoảng suy đồi, miếng cơm manh áo ảnh hưởng trực tiếp người hơn hết. Không tình thương mến, đùm bọc gia đình, như truyện Cô Chính, mô tả nhân vật đi lang thang, người anh hắt hủi, dấn thân vào đường giang hồ vô định. Người mẹ lúc trẻ bị cưỡng hiếp sau đẻ ra Suzan, đứa con hai dòng máu không biết cha mình là ai. Người mẹ trẻ đi lấy chồng, con riêng bị bố dượng hành hạ. Tả cảnh chàng nghệ sĩ bị đời ghẻ lạnh, xã hội lãng quên, đọc đến đây liên tưởng đến văn Nam Cao “... Nước mình còn nô lệ, thì tiếng mình còn bị chê khinh và bọn nhà văn còn bị rẻ rúng, bạc đãi, coi nhà một hạng người không có cũng chẳng thịt thòi trong xã hội...” Triều Đẩu nhớ tới nhà văn ấy trong Nhà Tôi. Đến Gái Năm Con, mô tả nhân vật nữ, chồng qua đời, tái giá, mục đích giải quyết dục tình. Qua truyện khác, Tình Trưởng Giả, nhấn mạnh sự khác biệt hai trình độ văn hóa khó dung hòa, cuối cùng tan vỡ. Hoặc trong Chim Bồ Câu Trắng, Tết Hồi Cư, Nhân Quả, Người Ơi!..., mỗi truyện là cảnh sống đầy hỗn tạp – như sau chiến tranh, động đất; kẻ sống sót cảm tưởng ngày mai không có nữa; họ thay đổi cách sống, sống vội, yêu cuồng, giải quyết tình dục cấp thời. Bối cảnh sau 1950 ở Hà Nội, tạo thành thiên phóng sự linh động, sâu sắc. Trên Vỉa Hè Hà Nội gói ghém nhiều phóng sự: Thiếu Nữ Lang Thang, Ăn Cơm Tây, Cô Hoa, Rau Muống Vắt Chanh, Nhà Tôi, Bộ Com Lê Hai Nghìn Rưởi, Gái Năm Con, Tình Trưởng Giả, Nhân Quả, Chim Bồ Câu Trắng, Vầng, Trăng Sáng… Này đây Cô Hoa, em Loan thuộc gia đình trung lưu hồi cư về Hà Nội, Loan đi làm thuê nuôi gia đình. Nhân vật nữ dám nghĩ đến tình yêu, bởi tình yêu không cùng đi với đạo luật, nghị dịnh. Tại sao vậy ? Tác giả lý giải thật sâu sắc, người đọc phải não lòng thương xót nhân vật đi làm chỉ mục đích: có miếng ăn “... Chỉ biết Loan đi làm rất đúng giờ, ốm không dám nghỉ? giữ gìn từng ly từng tý để khỏi mang tiếng. Từ chối mọi bức thư tình cảm của người quen biết hay không quen biết, mặc dầu nhiều khi lòng trinh nữ cãng cảm thấy rộn ràng. Trái tim người ta, anh ơi! đâu phải là gỗ đá. Loan đã cố thủ trước mọi cuộc tấn công tình ái, chỉ vì – như nàng vẫn tin tưởng một cách chắc chắn – ái tình không được phép đi đôi với những đạo luật, nghị định...” Tâm trạng cô chị như ở trên, còn cô em, Hoa yêu thích văn, thơ có tâm hồn văn nghệ. Quãng đời còn ở hậu phương, Hoa yêu Quân, văn nghệ sĩ. Lý Văn Sâm, Vũ Anh Khanh thường đề cao vai trò người văn nghệ, với Triều Đẩu, là Tóc Thề, khi nhận định về mặt này, tác giả viết. “... Họ không tính đến chuyện cưới xin. Vì trái lại với thường tình, họ đã yêu chỉ để mà yêu. Vả lại, nếu có xin làm rể, chắc chắn Quân sẽ bị từ chối, Anh chưa có công ăn việc làm nhất định. Danh từ nghệ sĩ đẹp đẽ thực, nhưng viển vông quá: Ở đời, người ta cần một thứ gì thực tiễn hơn!... Nguyễn Bính với Giòng Dư Lệ, Thâm Tâm với Các Anh Hãy Uống Thật Say khóc tình gặp gỡ chẳng nên duyên, hoặc như T.T.KH với ba bài thơ bất hủ: … Nếu biết rằng tôi đã có chồng/ Trời ơi, người ấy có buồn không? Vậy thì yêu chỉ để yêu, người nghệ sĩ không việc làm chắc chắn lại vác khăn gói lên đường vô định, còn nàng ở lại vương vấn, lấy chồng, vẫn nhớ người cũ. Cái khổ ở điểm này và thất tình dễ làm người tưởng là hạnh phúc mà vẫn chưa hạnh phúc – hồi tưởng, làm khổ đời nhau nhiều hơn. Có lẽ vậy, khi lý giải nhạc Đoàn Chuẩn nhạc sĩ tài hoa vẫn làm cho người yêu thích lãng mạn hồi tưởng. Mối tình nghệ sĩ như giấc mơ chóng tàn vì vướng muôn ý thơ? Trở lại với Quân yêu không trọn vẹn, khăn gói lên đường, cố quên tình yêu của năm tháng cũ. Người yêu ở lại gia đình gặp hoạn nạn – Bố nàng, chỉ vì đánh chắn bị bắt, phải đi cải tạo, và một chính trị viên chú ý con gái phạm nhân, hứa cứu bố vợ tương lại với điều kiện nhân vật nữ nhận làm vợ. Cùng đọc đoạn văn được mô tả, giọng văn châm biếm thật sâu cay, mai mỉa độc địa. Và chỉ ở cái xấu này, Triều Đẩu văn mới phát huy được: “... Ngày xưa tôi đã nấu bếp. Nhưng từ khi ra giúp nước được làm ủy viên chính trị, tôi quên hẳn hình thù cái soong, cái chảo. Hì, hì! Thế mà có những món ăn đặc biệt, tôi không bao giờ quên. Cô cứ yên trí. Để bao giờ cưới, chúng ta sẽ ra chỉ thị để gia nhân họ nấu: ô nào pô ta roay an, nào bút sê a la rét, típ tâm banh...” Bộ Com Lê Hai Nghìn Rưởi tả nhân vật nam lưu manh rình tranh tối tranh sáng, ra tay chớp cơ hội. Thành tích sản xuất thuốc lá Bastos giả, từng thuê những bộ com lê đắt tiền để làm mánh. Có một ngày hắn gặp người làm công, xưa quấn thuốc thuê. Hai vợ chồng Nha và Nụ, (Nụ xưa đã bị hắn cưỡng hiếp) nghe chủ cũ giở mép môi bán bộ com lê cho người làm công cũ: “... Con định đưa nhà con chiều nay đi dự một dạ hội Cứu Tế, có thiếp mời hẳn hoi. Thế mà bộ com lê chưa lấy dược. Thế có giận không chứ? Nói xong, nó nhìn chòng chọc bộ com lê của hắn. Hắn hiểu ý, giọng tự nhiên: Nếu anh muốn tôi để lại cho anh bộ com lê. Nha trố mắt ngạc nhiên, nghiêng mặt, môi trễ xuống như không hiểu. Hắn phải bồi thêm một trùy bịp bợm: – Nay mai tôi đi khai mỏ. Anh cũng biết đi khai mỏ với bộ com lê lịch sự như thế này bao giờ? Cho nên tôi rất có thể để lại cho anh. Để bằng giá rẻ thôi vì tình nghĩa thầy trò ai mà còn ăn lãi. Tôi vừa may hai nghìn rưỡi đấy: Nha mừng quýnh, vỗ vai vợ, nói lớn: – Tiền nong có quản gì, miễn là được mặc bộ quần áo ông chủ Nha là sướng rồi!... Tác giả tả chủ cũ túng quẫn, đầy cơ hội tính, nên gạ bán thẳng thừng. “Chẳng ai đi khai mỏ với bộ com lê”. Bên có tiền mua được bộ com lê chủ cũ, hãnh diện, lại dịp cần. Sự sung sướng ra mặt của Nha chẳng khác với Xã Bèo mua được miếng đất Trương Dần, kẻ xưa kia từng khinh miệt Xã Bèo. (9) Nhân vật chủ cũ Nha, cởi quần áo trong quán giải khát gần đó không mấy hợp lý. Vai trò chủ cũ chưa chắc hạ giá mình như vậy, bề ngoài, giọng nói chủ cũ vẫn đầy đạo lý … Tình nghĩa thầy trò ai mà ăn lãi. Giả thiết tác giả cho đoạn này chìm đi, không cần tả thay quần áo ở đâu, chẳng hại gì. Nhân vật được mô tả trong Trên Vỉa Hè Hà Nội, mỗi nhân vật đều có cá tính riêng, mỗi cảnh đời một hoạt cảnh sống động, lột được bộ mặt xã hội thời Hà Nội hồi cư. Nhưng chưa có tác giả viết phóng sự hoạt kê đã thực hiện được như Giống Tố Vũ Trọng Phụng tiền chiến. Vào thời bấy giờ, Triều Đẩu là khuôn mặt văn nghệ sáng giá của phóng sự hoạt kê. Đánh giá về Trên Vỉa Hè Hà Nội, thì : “... Cây bút trào lộng của Triều Đẩu đã dùng cái cụ thể diễn tả cái trừu tượng một cách bất giờ đột ngột làm cho người đọc phải bật cười. Cười rồi lại phải im bặt ngay để mà suy nghĩ...” (10) Lá Thư Hà Nội, truyện khác của Triều Đẩu đáng được đề cập tới. Sau khi lướt qua bài điểm sách, cụ thể phê bình Đồi Thông Hai Mộ không đặc sắc. Qua Thư gửi từ Hà Nội cho người bạn, chỉ có tính cách riêng tư giữa nhân tình cũ với bạn ở xa không khiến người đọc bận tâm. Chỉ tự - sự - kể Ảnh và Hưởng, viết dưới dạng hồi ký là đặc sắc. Nhân vật Đại, không ai khác hơn chính tác giả kể lại đời chìm nổi thật chân tình, xúc động. Là nhà văn đáng nể mặt trong lối viết tự sự hậu chiến. Đại, con gia đình trung lưu, thuở nhỏ theo học chữ nho, sau chuyển học chữ Tây, qua trường làng lên tỉnh rồi đậu bằng Cơ Thủy (11),vào Trường Bưởi. Đại trọ học ở Thụy Khê, (ven Hồ Tây). Tốt nghiệp Đại là công chức chính phủ Bảo hộ, lập gia đình sinh con đẻ cái, sống an thân. Vợ chết, Đại lại tiếp tục cưới vợ khác. 1948, Đại bước vào đời viết văn nổi tiếng. Tự - sự - kể tuy chưa nhận là tôi như đối với Nguyên Hồng; nhưng Đại, kể lại đời thật chân thành. Truyện tự sự rất hiếm, tuy không phải không có câu chuyện cảm động để viết ra, nhưng với người viết và người đọc, thì cái tôi là cái đáng ghét (12), khoe mình. Với Triều Đẩu, viết Ảnh và Hưởng, cuộc đời niên thiếu đến thanh niên, vốn sống riêng của ông không thể tương đồng với bất cứ ai khác. Nói như Alfred de Musset: muốn viết đời mình, đầu tiên phải sống trải, và vốn sống trải của ông được viết lại như thế nào? Có thể, nhân vật Đại từng đọc La Confession d’un enfant du siècle (13), sự thâm nhập tư tưởng của J.J. Rousseau được dẫn lại ở trang 101 trong sách. Viết về đời mình, Charles Dickens mô tả qua cậu bé trong truyện David Copperfield, tác phẩm nổi tiếng thế giới. Đạt được giá trị, điều kiện cần và đủ xây dựng tác phẩm vẫn là thành khẩn, nếu biến hóa tính xấu thành tốt như E.Renan, hẳn bớt nhiều giá trị. Còn tác giả Ảnh và Hưởng thì sao? Phần sau sẽ được lý giải. Trên kia, tôi nói đến tự truyện tiền chiến, không phải chỉ có Nguyên Hồng mà còn Mạnh Phú Tư, Thiết Can, Nguyễn Đức Quỳnh. Giai đoạn hậu chiến từ 1950 là bắt đầu với Triều Đẩu. Tả quãng đời thơ nên thơ, vô tư lự ấy, khi chưa phải lo áo cơm, danh vọng: - “... Chao ôi! Cái tiết tháo ngây thơ và trong sạch đó, sao anh không giữ được mãi? Cho tới ngày nay, sau mấy chục năm lăn lóc với đời, anh đã khổ vì danh nghĩa vợ chồng và nhục vì đại nghĩa tình ái. Giờ đây chạy theo những con chim xanh để không bao giờ bắt được, anh đã trở về với gia đình, với người vợ đăm chiêu và khắc khổ. Anh đã bâng khuâng nghĩ tới thời gian ngây thơ đẹp đẽ mà loài người đã tượng trưng được nghĩa vợ chồng và tình yêu không nước mắt trào, giữa một anh con trai lên sáu và cô con gái lên ba...”. Trọ học ở nhà thầy cùng bạn học lớn hơn, nhân vật Đại thường bị bắt nạt. Hơn một ngày hay một việc, kẻ lớn hơn thường ăn hiếp kẻ yếu hơn. Viết đoạn văn này, không phải cho ông, còn cho tôi, cho anh, trong một xã hội chung chế độ chính trị. Hãy thu mình nhỏ lại, nghe Triều Đẩu tả trò lớn dọa dẫm: - “... Thế rồi chiều chiều, thầy cứ đi đánh tổ tôm hoài để mặc Đại ở nhà cũng với vai trò khác, cũng trọ như thầy, như Đại. Và có lẽ hy vọng được thầy săn sóc riêng như Đại. Đêm đêm, thằng học trò lớn – thằng ở nấu cơm cho thầy – thắng đó đem chuyện ma ra kể làm cho lũ trò nhỏ sợ rúm người lại. Xa nhà xa cha mẹ, sống với một tâm hồn tí hon, với những suy nghĩ thơ ấu. Đại đã sợ hãi vô cùng. Đêm đến, tiếng dế, giun kêu đều đều, tiếng ễnh ương cất lớn ngoài ao. Đó là lúc những con ma đen ngòm thè lưỡi đỏ dài xuống tận đất, hoặc cái lao lăn xả vào chân Đại. Và, đó cũng là lúc những con ma hát nghêu ngao, nằm võng đưa tít trên ngọn tre để, nếu Đại đã đi qua, nó sẽ ngả ngay xuống cuốn ngay đi. Tất cả đã được tạo nên từ miệng thằng trò lớn. Và cứ mỗi buổi tối, những hình ma, những hình ma cử động quái đản đó lại hiện ra để dọa nạt Đại. Thấy có hiệu lực, thằng trò lớn lại thêm bớt thay đổi chương trình. Cho đến khi một lũ ma đi cà kheo và múa may giữa đồng khuya thì cũng vừa lúc Đại được gọi về lên tỉnh học...”. Phác họa qua vài nét điển hình về một gia đình, tác giả cho người đọc hiểu môn đệ Khổng Mạnh chịu ảnh hưởng, rồi tác động đời sống thường nhật ra sao: “... Ông cụ thân sinh ra anh, như trên đã nói, là một ông đồ nho thích ngâm thơ, uống rượu, đánh tổ tôm và hát ả đào. Có khi mê mệt đào hát làng bên, ông cụ quên cả về nhà. Bà vợ có kỳ kèo thì nhất định là quyền của bà. Nhưng ông cụ ngại những nguyên lý tối cao của Khổng Mạnh để mắng chửi om sòm và dùng cả đấm đá để bảo vệ cái quyền bất khả xâm phạm. Bà cụ chỉ còn khóc lóc và mấy cô em gái đã lăn xả vào lôi mẹ ra...”. Đối với thanh niên chịu ảnh hưởng Tây học nhìn cảnh này, nhân vật Đại đã phản đối, dầu là âm thầm, qua những dòng chữ viết, chống đối bất công từ bao đời, hiện vẫn tồn tại. Ở tuổi hai mươi, cô gái bên cạnh ở tuổi dậy thì tấn công tình ái, thờ ơ – mà nhân vật đã hiểu gì về tình yêu là thế nào đâu để đáp lại? Nhân vật nữ Mít sang nhà Đại trọ học dò la. Tác giả mô tả nhân vật này thật linh hoạt, vì Đại không đáp lại dục vọng Mít, nàng chạy theo chàng thợ bạc. Thâm ý tác giả lên án sự lãng mạn đáng thương của gái tỉnh lỵ, với lời bình chê trách khá nặng nề: “... Đại đang ngồi học trong nhà trọ, bỗng thấy cô Mít ở nhà bên cạnh tự nhiên sang chơi. Cô đến ngồi sát cạnh Đại. Cô hỏi han về việc học của Đại một cách vẩn vơ và Đại đã đáp lại một cách ngây thơ đáng tiếc. Nhưng mấy hôm sau cô Mít đã trở về... Còn anh thợ bạc có cái răng vàng cũng đã quay về với vợ con. Gã cứ phớt tỉnh như không có chuyện gì xảy ra...” Vào Trường Bưởi, cụ thân sinh Đại, quần the thâm như cụ Lý dẫn con đến bị anh gác cửa bĩu môi. Tác giả tả lại qua một pha thật sinh động. Thói đời thời nào cũng vậy, anh kém học dẫu ở địa vị thấp kém lại hay tỏ ra sĩ diện hão tự cho mình cao trọng: “... Cụ Đồ hỏi anh công séc : (14) – Thưa Ông, trường đã nhận học trò vào chưa ạ? Liếc mắt nhìn ông lão nhà quê với anh học sinh cũng nhà quê, gã liền bĩu môi khinh khỉnh, sau khi dang tay đóng sập cánh cổng lại: – Ồ, trường còn nghỉ. Hỏi vớ vẩn... Tác giả lên án tật xấu người gác cổng, nhưng cũng không quên bà hàng bán nước cổng trường. Họ nghèo, nhưng là Mạnh Thường Quân, bán chịu cho trò nghèo thiếu, khi các cậu còn hàn vi, chưa ra trường, chưa trở thành ông Thông, cậu Phán Tòa Sứ... Hãy cùng tác giả nhớ lại hình ảnh mẹ con bà hàng nước ngoài, qua giọng văn hoạt kê tả chân đầy lòng thương sót: “... Chủ hàng là một người đàn bà có tuổi, mặt đậm nắng đầy vẻ phong trần. Hơn nữa, những nét hằn chằng chịt trên khuôn mặt, tố cáo một cuộc đời nhiều lo toan và đau khổ. Bà góa chồng đã lâu, sống nghèo nàn với một đứa con đen đủi. Hai mẹ con đã từ bao lâu nay sống lần hồi với một loại khách hàng duy nhất và dễ dãi, học trò ngoại trú Trường Bưởi. Có gì đâu, quả me chua loét, chiếc bánh mật cứng nhắc, múi bưởi về chiều khô đét. Cái tụi khách hàng quen thuộc này có bao giờ chê bai hay khó tính đâu? Họ vui vẻ nhận tất cả những món quà trước giờ học và ăn một cách rất ngon lành. Bà hàng đã quen các cậu, biết tên từng người, vui lòng bán chịu, nếu cậu nào không sẵn tiền. Cho tới sau này các cậu làm nên kỹ sư hay thạc sĩ, giáo học hay thư ký, có trở lại thăm trường, vẫn còn trông thấy ti tiện với ngôi hàng nhỏ trên bãi cỏ, có một người đàn bà lam lũ đã từng bán quà chịu cho mình với một độ lượng vô biên...” Tả tác phong người lao động, biết làm lụng, ít khi nghĩ đến hưởng thụ – như vợ chồng nhà chủ cho thuê phòng trọ, học sinh ăn cơm hàng ở gác trên, chủ nhà ở dưới. Gia đình trung lưu này không đến nỗi nghèo như mẹ con bà bán nước rong, song họ chắt chiu, căn cơ: “... Chí thú suốt đời, ông Phú đã làm được một căn nhà có gác con con, nhưng không dám hưởng thụ. Hai vợ chồng chỉ ở căn dưới, dành gác cho học trò ăn cơm tháng. Nấu cơm cho học trò từ ngày có Trường Bưởi, vẫn là mối lợi cho dân làng Thụy Khê. Làng này ở sát Hồ Tây...”.
Tuổi trẻ dễ xúc động yêu đương, với Đại bắt đầu tuổi mười hai. Người đầu tiên dạy Đại yêu thì đã bỏ lỡ cơ hội, như giới thiệu là cô Mít. Rồi Đại bắt gặp một cô gái làng khác xinh xắn, đi qua nhà, Đại hay nói bông lơn. Cô gái làng dễ bắt nhịp yêu, tưởng lời bông đùa cậu học trò tình ý. Cô dốc tiền để dành trong ống sắm sửa áo quần tươm tất. Mỗi lần gánh nước qua nhà, nên Đại hay bông lơn. Cô gái làng dễ rung nhịp yêu đương, tưởng lời bông đùa của cậu học trò có tình ý, nên cô giốc ống tiền để dành sắm sửa diện áo quần tươm tất. Mỗi lần gánh nước qua nhà, mong dịp gặp cậu học trò. Cậu học thi, quên lời ân ái quảng đại với cô gái siêng năng gánh nước ấy. Đoạn văn thật tâm lý, đầy xúc động, nhất là đoạn Đại hồi tưởng và Đại hối hận vì không biết cô gái làng yêu đến thế: “...Đại bỗng để ý tới một cô gái làng, cổ cao quá kích thước và làn da trắng trẻo như bột gạo. Cô ăn mặc cũ kỹ như lúc đi làm ở nhà Ô Mền (15). Mỗi chiều nghỉ việc về nhà, cô vẫn đi gánh nước, cũng tạo nên những cái cổ cao và khuôn mặt trắng trẻo như vậy. Cô sống âm thầm cần cù ít nói và hình như làm được bao nhiêu tiền cô đều chắt chiu bỏ cả vào ống làm vốn. (...) Thật cô đi qua, vai nặng chĩu, Đại nói đùa bâng quơ: – Cô gánh nước có nặng không? Nào ai biết. Chỉ biết sau đấy, anh chàng Đại lại phải vùi đầu vào những kỳ thi. Nhưng ngoài ngõ cô em bị một phát tên vô hình bắn vào ngực đã bước vào tình trạng mới. Láng giềng bỗng nhiên thấy cô thay đổi, sung sướng vui vẻ và tươi cười. Ống tiền giữ gìn bấy lâu cô đã thẳng tay bổ vỡ toang ra để sắm quần áo mới. Như vậy, tất cả số tiền công nhà Ô Mền tích trữ từ mấy năm nay trong ống bương, thì một buổi sáng đẹp đẽ, đã bương hết nhãn. Rồi thì chiều chiều thắng bộ đồ mới, cô đi gánh nước, gánh mãi, gánh mãi, Vại đầy, chum đầy, cô tưới cây, cây tràn trề, cô tưới đất, đất đã ướt sũng, cô tưới bàn chân cô, tấm lòng cô. Giả sử lúc ấy anh chàng hôm nọ trên cửa sổ, chỉ nói cho một câu đẹp đẽ như hôm nào thì cô mình sẽ bớt đau khổ, không tuyệt vọng và thừa tin tưởng để, nếu chàng muốn, nàng sẽ gánh nước, gánh mãi, gánh nữa, gánh đến cạn cả Hồ Tây... Nhưng than ôi! Trên sông hồ, bóng người đã vắng. Cái gã ba hoa gieo tai họa mà không hay đã quên khuấy cô nàng như cơn gió thoảng...” Thuở học trò, tuổi đẹp nhất đời người, chưa mang lụy danh lợi, tình yêu, người để mở lòng nhân ái. Về bản chất: nhất quỉ, nhì ma, thứ ba học trò, trêu thầy ghẹo bạn nhiều khi không ác ý. Học sinh thời kỳ đầu thế kỷ hai mươi, thời Pháp thuộc, ít học sinh quên câu: “... J’aime en vous votre famille dont vous êtes la joie... j’aime en vous votre patrie dont vous êtes l’espoir! Modeste, je vis, modeste, je mourrai..." Tác giả dẫn đoạn sau, phiên âm ra tiếng Việt, chính âm điệu này từ giáo sư đọc giảng cho học trò tạo không khí vui nhộn? Trò cười ồ lên chế nhạo lẫn nhau, sau khi đã ra trường, vẫn không quên được! Triều Đẩu có giọng văn đùa cợt sâu sắc; không ác độc, như văn của De Amicis áp dụng vào đây không sai: “Ba mươi năm sau, các anh mới thấy hối hận vì ngày xưa đã tệ bạc với thầy...” : “... Giáo sư A–na–mít trong buổi học cuối cùng đã cao hứng hạ đôi kính trắng và tuyên bố như vậy. Để kết luận, giáo sư đã dùng câu này đây – có lẽ của Guyau – nhưng đã đọc bằng giọng hoàn toàn Việt Nam: “Dem ăng vu, vốt phăm mi đông vu dết la doa, dem ăng vu bát ty đông vu dết lét boa. Mô đét dơ vi dơ mô đét dơ mua dê. Mặc dầu trong lũ học trò có anh đã phải lấy hai ngón tay giữ chặt hai môi để khỏi bật tiếng cười khả úy, đồ đệ của Khổng Tử đã bình đoạn văn trên đây của đồng bào Voltaire một cách khoái trá say sưa như một bài thơ Đường tức cảnh vậy. Giờ đây, sau này mấy chục năm lăn lộn với đời mưu sinh và trà trộn với rất nhiều hạng người. Đại thật nhiều khi đã chán nản. Trong những giờ lỏng lẻo của đời thực tế mới có dịp ôn lại những năm tháng sống với thầy và bạn ngày xưa. Đại cảm thấy sống lại cái thời đẹp đẽ của vô tư mà niềm hy vọng được đặt trên bó hoa hồng. Đôi kính trắng của giáo sư chữ nho lại hiện ra cùng với những danh từ Việt Nam phăm mi và bát ti...”. Đại tiếp tục đau khổ tiếp tục với nghề kế toán và biết lấy vợ có ý đào mỏ, thật chẳng còn ý nghĩa! Hồi ức dĩ vãng trở lại đầy ăm ắp trong dòng chữ viết nhà văn từng trải, khuây khỏa phiền muộn, bù lại ngày thiếu thốn cơm áo ở hậu phương. Đại tác giả hóa thân bước vào hiệu sang trọng: “... Hắn từ đâu lại. Thì hắn vừa từ hậu phương lại. Và nhất định hắn sẽ đi tới ô ten Phú Gia, hoặc Mỹ Kinh Tửu Điếm. Điều mà hắn còn băn khoăn bây giờ là chưa biết đi Mỹ Kinh hay Phú Gia...” Triều Đẩu thành công với lối viết tự sự, đời sống trải qua nhiều truân chuyên cay đắng. Ông chịu ảnh hưởng lối viết phóng sự châm biếm, hay đùa cợt nhả nhớt trong tự - sự - kể, đôi khi không cần phải làm ra vẻ khôi hài. Truyện dài Tranh Tối Tranh Sáng chỉ là thí nghiệm cách viết truyện dài, không bằng phóng sự hoạt kê, hồi ức tự sự. . Kết Luận :
Triều Đẩu có giọng văn châm biếm, thích hợp với đoản truyện, như Trên Vỉa Hè Hà Nội. Hồi ức Ảnh và Hưởng (trong Lá Thư Hà Nội). Triều Đẩu thành công vượt mức. Luận về giá trị đồng tiền thật sâu sắc, quả như đồng bạc, có thể hiểu hai nghĩa: Đồng là tiền và Bạc cũng là tiền, nếu không biết xử dụng, tiền trở thành bạc, Triều Đẩu mai mỉa tiền vi quí cũng vì vậy. Chân lý của con người giai đoạn hồi cư chỉ ăn và uống, giải quyết tình dục. Tiền vi quí tạo phản nghĩa vợ chồng, bạc tình thâm phụ tử, phản trắc thầy trò, bạn bè lừa lọc, trên chẳng ra trên, dưới chẳng là dưới. Nếp sống xô bồ được Triều Đẩu ghi lại trong tác phẩm, giá trị cả văn chương và ý nghĩa. Đôi khi văn Triều Đẩu độc ác, lại trầm lặng như đàn trầm, sôi nổi như triều cường lũ. Triều Đẩu thành công phóng sự hoạt kê, thêm nữa là hồi ức tự sự. Ông là nhà văn tư tưởng thâm thúy, sâu sắc, nổi tiếng của thời đoạn văn chương hậu chiến. TIẾT 3. TRIỀU ĐẨU (1918– ????) . Tiểu Sử và Tác Phẩm : Tên thật Nguyễn Đình Thái. Sinh năm 1918. Tác giả truyện dài Kẽm Trống, Nấm Mồ Vô Định (Thế Kỷ Hà Nội 1952), kể lại truyện rùng rợn thời kỳ Kẽm Trống bị cướp bóc tàn khốc nhất. Ca dao có câu: “Yêu anh em cũng muốn vô Sợ truông Nhà Hồ sợ phá Tam Giang.” Bùi Xuân Uyên giới thiệu về tác phẩm này: “...Trái với phần lớn những người cầm bút phải dò dẫm mãi mới thấy đường đi của mình, Trúc Sĩ đặt một bước đầu là nhằm ngay tới và đã như sỏ chân vào hia bẩy dặm để tiến tới đài danh vọng. Phải rồi, vượt qua xong Kẽm Trống, không có ai phủ nhận tài năng của Trúc Sĩ được nữa. Không một ai là không thấy bằng lòng khi đọc Trúc Sĩ và trong giới văn nghệ, điều này thật là một diễm phúc...” . Phân Tích: Kẽm Trống, miền địa điểm giáp giới nam Bắc Việt, cực bắc Trung. Nơi này hiểm trở, dân Vô Tu chỉ sống bằng nghề cướp bóc. Một lần, thầy đồ Nghệ ra Bắc gặp cô gái Lim Hạ (Bắc Ninh) phải lòng, cưới cho bằng được, đưa nàng về quê quán ra mắt họ hàng. Qua Kẽm Trống bị tên cướp khét tiếng Trương Vi cướp vợ và tiền bạc. Cô đồ Nghệ đành phải lấy Trương Vi. Nàng có sắc đẹp, từng làm thầy đồ Nghệ điên đảo. Cô mang thai, sinh thiếu tháng, đứa bé vàng vọt, xanh xao, cuối cùng Trương Vi bóp hài nhi chết. Một đêm Trương Vi lần vào buồng vợ, cô đồ Nghệ giả điên khóc lóc. Cô Đồ điên giả, thét, gầm, trợn mắt nhìn Trương Vi, miệng sùi bọt mép, tay ôm bụng kêu đau. Trương Vi không biết vợ bị bệnh gì, nàng đòi lập đàn chay, còn phải viết sớ đủ tên những kẻ bị Trương Vi ám hại. Có như vậy oan hồn mới siêu sinh tịnh độ, không còn luẩn quất ám ảnh., Trương Vi ngần ngại và qua lời nói ngọt ngào của vợ: - chẳng hạn chỉ có hai vợ chồng mình biết, chuyện này làm sao lọt đến tai ai? Chính tay vợ chồng đốt sớ do Trương Vi viết ra, có gì phải sợ? Cũng vì thương vợ bị oan hồn ám ảnh, Trương Vi đành chiều theo. Nhớ lại một tay Trương Vi đã giết 150 mạng, không quên bỏ sót một ai. Một buổi gần Tết, Trương Vi đem cặp gà về, báo cho vợ biết, nay mai vợ chồng thợ bạc bị bắt sẽ là vật tế thần. Cô Đồ Nghệ lẻn lên huyện báo cáo với tấm sớ Trương Vi giết 150 mạng người, và mai đây đến lượt vợ chồng anh thợ bạc. Quan huyện sai lính bắt Trương Vi tại trận, khi tướng cướp đang trên đường đi tìm cô Đồ Nghệ. Tướng cướp, bất ngờ bắt gặp vợ trong đám quan quân ấy. Quan huyện ra lệnh bắt tất cả dân làng Vô Tu, chỉ trừ đàn bà, nhốt trong hang Kẽm Trống. Từ đấy dân yên ổn làm ăn, đổi tên Đoan Vỹ. Phần hai, Trúc Sĩ bố cục khác thường, chính dân làng Đoan Vỹ lại bị cướp bóc. Quan huyện sai đội trưởng vây bắt bọn cướp mới, gồm 13 tên, cả viên chánh tổng, đều bị xử trảm. Cuối cùng, chính đội trưởng lại ám sát chánh án, kết thúc bằng cuộc xử tử đội trưởng năm 1946. Kẽm Trống của Trúc Sĩ, có phải là: “... bước đầu là nhằm ngay tới và đã như sỏ chân vào hia bẩy dậm để tiến tới đài danh vọng? Phải rồi, vượt qua xong Kẽm Trống, không có ai phủ nhận tài năng của Trúc Sĩ được nữa?...” Bùi Xuân Uyên tán tụng trong bài Tựa đầu sách? Phân tích, đánh giá ở những dòng sau, xin dẫn bạn đọc theo dõi truyện ngắn mang tựa: Giết Chồng Báo Thù Chồng Nhất Linh và Khái Hưng (trong cuốn Anh Phải Sống) (Đời Nay xb trước 1945, sau 1950 NXB Phượng Giang tái bản ở SàiGòn). Cốt truyện như sau: Liệt, cô gái xinh xắn nhất làng Nghi Hồng, vợ lẽ viên chánh tổng Liệt. Ông Chánh bị ông Bá báo thù, nên sai người giết đốt nhà ông Chánh. Không đủ tang chứng, quan huyện bó tay không thể đưa ra xử. Nhờ lân la, Liệt giả vờ đi hái dâu, biết được chuyện ông Bá Mịch ở Làng Ngang là thủ phạm. Liệt bèn tìm bà Hậu, thân thích Bá Mịch để dò la nguyên ủy. Liệt giả vờ sang nhà mua dâu, nhiều lần mua, thành khách quen. Thấy Liệt đẹp, ngoan, hay làm, Bà Hậu rất quí mến. Một hôm, Liệt nhờ Bà Hậu đưa sang nhà Bá Mịch vay thóc, Liệt trang điểm bằng cách dùng nhánh hoa hồng thoa nát bôi lên má hồng. Vẻ tình tứ của Liệt khiến ông Bá Mịch say mê điên cuồng, đòi cưới làm vợ. Đêm hợp cẩn, ông Bá Mịch vào buồng, nàng kêu đau bụng, nói nhảm nhí, đặt chuyện như có hai, ba hồn ma quanh đây chờ giết nàng. Ông Bá Mịch gọi thầy gieo quẻ do Liệt yêu cầu. Cô thầy cho biết nhà này bị ma ám, cần lập đàn giải oan hồn lẩn quất. Ông Bá Mịch phải tự viết tên đã sát hại ai, trong đó có Chánh Cốc, rồi lập đàn chay giải oan hồn Liệt còn cho biết muốn chính xác, cần phải làm sớ ghi tên oan hồn, thì giải oan mới ý nghĩa. Tờ sớ ấy sẽ do chính tay Liệt đốt, làm sao bí mật lộ ra ngoài. Nghe bùi tai ông Bá viết tên, tuổi những kẻ bị sát hại rồi gấp lại, đưa cho vợ. Liệt bỏ tờ sớ vào yếm thắm, lấy tờ giả đốt. Sau đó, Liệt bỏ nhà đi, ông Bá Mịch cho người tìm, chưa ai bắt gặp nàng ở đâu? Bỗng một hôm quan quân huyện đem súng ống về làng bắt ông Bá Mịch. Vào hầu, quan huyện hỏi ông Bá Mịch chối hết mực, đến khi Liệt bước vào, ông Bá không thể cãi đành kêu lên: Nó giết tôi rồi! Dân làng khen Liệt có lòng với chồng cũ, trả thù giải oan vong hồn Chánh Cốc. Vậy Kẽm Trống của Trúc Sĩ, chính là Giết Chồng Báo Thù Chồng được viết lại hoàn thành trong một tuần lễ. (16) Việc đạo văn không là điều mới mẻ. Nhìn từ Đông qua Tây, lịch sử văn học các nước chép lại nhiều vụ đạo văn, gần hơn Bến Nước Ngũ Bồ Hoàng Công Khanh xuất bản sau Viễn Khách Hoa Thu là thí dụ. Truyện Anh Phải Sống Nhất Linh và Khái Hưng được một độc giả chép nguyên văn ký Vô Danh gửi dự thi văn chương báo Cần Học, chủ nhiệm Ngũ Văn Bằng vào những năm 1948, 49 ở miền Nam. Tòa soạn mời giám khảo tuyển chọn, sau tác giả truyện Vô Danh chiếm giải nhất và mời người trúng giải đến lãnh thưởng. Tòa báo chờ đã lâu, chưa ai nhận; bỗng nhiên báo Thế Giới Dương Tử Giang đăng bài cho biết: người được giải chính là Nhất Linh và Khái Hưng. Và ban giám khảo mù văn chương giống hệt con mắt mù viết tựa Bùi Xuân Uyên vậy. Trở lại Kẽm Trống, Bùi Xuân Uyên vô tình rơi vào cạm bẫy. Chủ nhiệm Ngũ Văn Bằng trở thành chủ nhiệm Bùi Xuân Uyên tạp chí Thế Kỷ, coi như tòng phạm vụ đạo văn Trúc Sĩ, thiên tài văn chương đi hia bẩy dậm. Hãy cùng so sánh nhiều đoạn văn trùng lắp Trúc Sĩ qua Kẽm Trống (xuất bản sau khoảng 10 năm) và Giết Chồng Báo Thù Chồng Nhất Linh và Khái Hưng (xuất bản trước, cũng khoảng thời gian trên 10 năm) Cô Liệt, cô gái xinh nhất làng Nghi Hồng, mở đầu cho truyện ngắn: “... Liệt nức tiếng là xinh nhất làng Nghi Hồng. Đôi khi quán sớm chợ chiều, cái sắc đẹp tươi tắn, cái vẻ duyên mặn mà của nàng đã làm siêu lòng bao khách đi đường...”. (Giết Chồng Báo Thù Chồng) Cô Đồ Nghệ Kẽm Trống, được Trúc Sĩ vẽ lại: “... Mụ cúi xuống nhìn người con gái. Cái lưng ong nhỏ nhắn uốn mình như cây liễu non trước gió phũ phàng. Mớ tóc tả tơi phất phơ bồng bềnh như sóng mùa thu. Mắt mụ bỗng nheo lại... Bá Mịch trở thành Trương Vi. Và Trương Vi, hậu thân Bá Mịch. Hành động Bá Mịch đêm hợp cẩn không được cùng Liệt chăn gối, ở Trương Vi có khác hơn, sự xê dịch thời gian và vài tiểu tiết (hơn một năm trời chung sống với cô đồ Nghệ), Liệt đưa Bá Mịch vào tròng: “... Thế là Liệt vài tháng sau đã nghiễm nhiên là vợ ông Bá. Nhưng từ hôm cưới trở đi, hễ ông Bá vào buồng, nàng ôm bụng kêu trời, kêu đất: Ông ra ngay không thời nó đâm chết tôi bây giờ, tôi đau lắm. Thì có ba đứa nó theo sau ông hai người đàn ông và một người đàn bà, nó đương cầm giáo sắp đâm tôi đấy, mau lên không thời chết cả bây giờ... Một hôm Liệt đón ngõ gọi một người thầy bói vào xem, có cả ông Bá ngồi đó. Cô thầy bói gieo quẻ nói: Nhà này hình như có oan hồn lẩn quát, phải lập đàn giải quyết không thì tai họa, (hôm trước Liệt đã cho tiền dặn phải nói thế thế). Lúc thầy bói đi rồi, Liệt ông Bá lên dươm dướm nước mắt nói : Ông muốn cho tôi sinh nở với ông thời phải đàn giải thoát oan hồn ấy. Tôi quên mất bây giờ mới nghĩ ra. Ừ thì lập đàn chay nhưng cúng ai mới được chứ, chuông trống long tong thế này còn nghĩa lý gì?. Rồi nàng ghé vào tai ông Bá nói: Việc không nên nói cho ai biết. Vậy ông phải làm tờ sớ viết tên tuổi những oan hồn ấy. – Nhưng đừng cho người ngoài biết mới được. – Chính vậy, ông viết xong đưa tôi để tôi đem lên cho vào hòm sớ, rồi chính tay tôi đốt, việc này không thể để các nhà sư được, nhỡ lộ thì lôi thôi...” và trong Kẽm Trống của Trúc Sĩ: “... Trương lần vào giường vợ. Anh lè nhè nắm lấy tay nàng. Chị ghê tởm đẩy y ra, y chừng đôi mắt đỏ ngầu lẫn kinh ngạc. Chị Trương kêu thét lên, chỉ tay ra phía tối om trong buồng. Anh nhìn lại, có gì đâu? Nhưng hai tay chị cứ chắp lại lạy rối rít, miệng réo tên anh Đồ. Căm giận anh quát to lên một tiếng như muốn trấn át và nhìn chị, chị đã xùi bọt mép ngã ra bên giường hai tay ôm bụng quằn quại... Một lúc lâu nàng tỉnh lại, nhìn anh buồn bã nặng nề kể lể: Nàng trông thấy anh Đồ cùng hai người lái của ngày trước bước vào buồng trong lúc nàng cất tiền vào lạn. Vợ y hổn hển: – Anh Trương ạ! Anh có thương em thì anh phải lập đàn chay cúng vái cho em mới mong ăn đời ở kiếp với nhau được. Cái thằng Đồ ghê gớm lắm, chính nó giẩy em ngã lăn cho cái thai tuột ra đó. Anh phải làm sớ mà trị nó đi. Trương đáp: – Lập đàn cúng thì được, nhưng ai cúng? Chẳng lẽ lại gọi thầy Mo đến để đọc vanh vách tên chúng nó lên để bỏ mẹ cả lũ à? – Thế thì để ma quỉ ám ảnh em mãi sao? Thế anh không muốn chúng ta sinh nở với nhau sao? – Nhưng không được, lộ truyện thì chết. Ai dám viết sớ? – Anh viết vậy. Không cần nhờ ai cả. Ta lập đàn chay kín đáo giữa sân này. Anh viết hết tất cả tên những kẻ nào mà anh đã thịt để rồi giải oan cho chúng. Hồn chúng có tan đi, bấy giờ mình mới yên ổn được. – Trời ơi! Ai có gan đâu mà kể tên lũ quỉ ấy ra, quan tâm mà bắt được thì chỉ có đầu rơi xuống đất. – Quan quân nào mà đến đây, ta viết xong xưng tội đốt ngay. Và chính mình cúng lấy mà? Ai biết?
Trương đau khổ quá. Đành vậy phải để một ngày mà viết luôn lá sớ ấy. Y đếm trong năm vừa rồi. Vừa đúng 150 mạng, nhất là về tháng chạp... Liệt báo cáo quan bắt Bá Mịch, cô Đồ Nghệ cáo quan bắt Trương Vi. Cái khác không những bắt cá nhân Bá Mịch, làm ác; còn bắt cả làng: “... Sáng hôm sau, ông Bá không thấy Liệt đâu? Lão Bá lên đến Phủ, Quan hỏi còn một mực chối, đương gân cổ cãi thì ở buồng bên cạnh Liệt lững thững bước ra, Lão Bá dương mắt nhìn tờ giấy trên có mấy dòng chữ. Lão Bá thấy rõ chữ mình mới viết đêm qua, không thể cãi vào đâu nữa kêu lên:
Trời ơi! Nó giết tôi rồi... Ở Kẽm Trống của Trúc Sĩ: “... Trong khi đó, Trương Vi tỉnh dậy vào buổi ngọ. Anh tính từng bước đi của Cô Đồ. Trời tối dần, sao bây giờ vẫn chưa về. Anh hốt hoảng và hồ nghi ... (...) Hiệu lệnh truyền xuống. Bốn đội binh (96 người) đủ võ khí nội nhật đến giờ tuất phải bao vây quanh kẽm. Y (Trương) chợt nghĩ trố mắt ra nhìn đám quân quan, sau lưng một kỵ sĩ áo đen. Kìa chẳng phải nó thì còn là ai nữa. Y vùng chạy lên tới chỗ cô đồ Nghệ, cô khanh khách cả cười. Ông (quan huyện) cầm lấy lá sớ của Trương Vi giao cho Nha đọc to lên trước miệng kẽm như gọi oan hồn..” Kết Luận: Trúc Sĩ đạo văn, cả cốt truyện mạch văn, chỉ thêm đoạn văn tả sinh hoạt làng Đoan Vỹ thời kháng chiến. Và nhận có tham gia việc xử án, ông cho rằng truyện Kẽm Trống, nếu ai tìm ra trùng hợp vẫn thuật nhi bất tác. Trúc Sĩ có một tác phẩm mà tác phẩm này lại là đạo văn nên không thể coi ông là nhà văn sáng tác được.
NHÓM THẾ KỶ
Tiết 1 . – KHÁI QUÁT VỀ CÁC NHÀ VĂN TRONG NHÓM THẾ KỶ:
BÙI XUÂN UYÊN –
XUÂN NHÃ (nữ)– TẠ TỴ – HOÀNG CHU NGẠC.
Tiết 2 . – TRIỀU ĐẨU
Tiết 3 . – TRÚC SỸ
Tiết 4 . – PHAN PHONG LINH
Tiết 5 . – KẾT LUẬN VỀ NHÓM THẾ KỶ.
TIẾT 4.
PHAN PHONG LINH
(1911– 1956)
Tiểu sử :
Sinh 1911 ở Bắc Việt, qua đời ở Sài Gòn vào 1956. Cộng tác với tạp chí Thế kỷ đã xuất bản: Thắng cảnh Việt Nam Qua Thi Ca (1956), và nhiều bài đăng trên tạp chí Thế Kỷ, Giang Sơn (Hà Nội trước 1954), Văn nghệ tập san, Đời Mới, Văn nghệ Tự Do...(Sài Gòn).
Khuynh Hướng:
Ông viết bài chuyên đề văn học diễn tả qua thi ca, (Thắng Cảnh Việt Nam Qua Thi Ca), mục đích làm cho độc giả yêu mến đất nước qua thắng cảnh, kích thích lòng yêu quê hương, đất nước. Gồm 16 bài nói về cảnh đẹp, như Hà Nội, Thành Phố Cổ Loa, Núi Dục Thủy, Động Hương Tích, Đền Kiếp Bạc, Hồ Hoàn Kiếm, Núi Yên Tử, Chùa Thầy, Đền Hùng Vương, Hồ Ba Bể, Văn Miếu, Động Tam Thanh, Vịnh Hạ Long, Sông Bạch Đằng, Núi Tử Trầm, Tây Hồ. Sách viết về danh lam thắng cảnh rất súc tích, kèm ảnh, rất khổ công sưu tầm tài liệu.
Phan Phong Linh làm thơ, thể thất ngôn trường thiên, như: Xuân Viên Lan Tạ (báo Giang Sơn), khuynh hướng hoài vọng dĩ vãng. Tâm trạng là kẻ tân học thấm nhuần sâu sa tư tưởng Khổng, Mạnh, Lão Trang.
Kết Luận:
Xuân Viên Lân Tạ coi như bài thơ hay Phan Phong Linh.
Thi sĩ đưa vào thi ca tâm trạng nên nhìn non sông nghiêng ngửa, nhà tân học chịu ảnh hưởng sâu sa triết học cổ điển này đành bất lực cảnh nước bị xâm lăng, Pháp đặt ách bảo hộ gông cùm trên ba phần đất Việt. Thân phận tác giả tựa như cảnh vật, cây cỏ u buồn, nhuốm vào cả trong danh lam thắng cảnh. Một Thắng Cảnh Việt Nam Qua Thi Ca, giá trị văn học, được xác nhận: “... Không những chỉ có giá trị tồn cổ mà còn giá trị về văn học. Người ta có thể dùng cuốn ấy trích làm những bài tập đọc hay giảng văn trong các trường trung học và tiểu học. Phan Phong Linh đã mang cả tâm hồn yêu nước và yêu văn học để viết nên cuốn Thắng Cảnh Việt Nam Qua Thi Ca. Một cuốn sách hữu ích và trong đó có gần hai trăm trang giấy khổ lớn đã ghi bao hình ảnh đẹp và oai hùng của đất nước”.
Khóc một thi sĩ tài hoa, còn nhiều bài văn khác nữa, ở đây trích bài thơ Vũ Hoàng Chương:
“Hỡi ơi! Lòng đã nát chưa lòng?
Sét vỡ ầm, tin lệ đổ mưa
Tôi gọi, đất vùi phăng tiếng gọi
Anh thưa, trời cướp sống lời thưa
Giường thưa trăng tắt quê còn thiếu
Nhà lạnh thơ ngâm hận có thừa
Ai khóc chàng Phan, đầu chẳng bạc
Riêng ai sầu gửi áng mây đưa.
VŨ HOÀNG CHƯƠNG
Trích thơ Phan Phong Linh.
XUÂN VIÊN LAN TẠ
Một buổi xuân tàn bóng ác phai
Lòng xuân như đượm mốc xuân hoài
Thư trai khép cánh bờ sông vắng
Lặng lẽ bên lan dạo gót hài
Thoang thoảng hương lan quyện gió chiều
Nhẹ nhàng hồn khách những phiêu diêu
Hoa trang ghé hỏi ai là chủ?
Gốc liễu ao sen khóm tiểu kiều
Lão trượng tiên phong tóc bạc phơ
Hao hao như đã gặp bao giờ?
Tiên sinh chắc hẳn người quen trước
Hội ngộ thân sau vẫn đợi chờ
Khói trà cao thấp chuyện xa gần
Luận hết thanh tao giữa tục trần.
Ưa thú thăm lan, lòng đã giải
Giang tay đưa khách tới vườn xuân
Yêu kiều bạch ngọc vẽ băng trong
Khép cánh còn e nỗi thẹn thùng
Đâu phải dưới trần không kẻ biết
Nỗi riêng còn ngậm mối tình trung.
Trần mộng êm đềm trong giấc mơ
Hồng quần mầu lấy nhuộm bao giờ?
Nỗi riêng chắc muốn quên niềm tục.
Cuộc thế xem ra mới hững hờ.
Trinh bạch ai hơn ả Tố Tâm?
Lòng băng còn đợi khách tri âm
Dịu dàng lá trắng pha xanh nhạt
Để thẹn cho ai chót lỡ lầm.
Lá uốn cong cong hoa trắng tinh
Nhị kiều diễm lệ gợi xuân tình
Gió đông cũng khó lưu người đẹp
Đông Tước nên xin nguyện chẳng thành.
Nhất điểm ai làm ố tấm thân
Ngờ đâu dạn mặt với phong trần
Mang danh hội điểm đời mai mỉa
Bướm lại ong qua biết mấy lần.
Giận đời ô trọc mê man
Nên mới say sưa rượu đánh tràn
Thanh khiết đã không người hiểu biết
Mặc ai mai mỉa Túy ông Lan.
Kẽ lá ai đem miến bạc vàng
Phô trương chỉ mãi cái giàu sang
Ngân biên với lại kim biên ấy
Sao chẳng đem khoe vẻ dịu dàng!
Lơi lả phong lan rủ trước mành
Thanh lan lặng lẽ giãi lòng xanh
Đông lan quê kệch mầu nâu nhạt
So với hoàng lan há thẹn mình.
Tưởng được quanh năm đón chúa xuân
Đổi thay nào biết đã bao lần
Tứ thời vẫn đậm phô mầu tía
Ngạo nghễ coi khinh cuộc chuyển vần.
Phân kiếm lăm le giơ Kiếm Trần
Ngang tàng như muốn chọc tường vân
Thư sinh Tử Cán hồn phong nhã
Ưu thú thanh nhàn lắng giọng văn.
Ủ lãm mầu đen đóa mặc lan
Phải chi rầu rĩ tiếc xuân tàn
Cát tường ngẫm phận lòng ngao ngán
Thắc mắc khôn khuây chuyện cũ càng.
Rầu rĩ xuân nay dõi lối xưa
Rêu phong bụi phủ lá dầm mưa
Cổ cao hơn thước lan tàn tạ
Đâu bóng tri âm nắng đợi chờ.
Biến thầm một cuộc giặc Hoàng Lương
Dấu vết hằng in cảnh nhiễu nhương
Cột cháy, tường trơ, nhà mái sập
Hoang tàn tô đạm nét tang thương.
Tâm sự bây giờ ngỏ với ai?
Hương lan cao quí đã đành phai
Khóc hoa dầu chẳng như người trước
Lòng cũng bâng khuâng nặng cảm hoài.
1954
PHAN PHONG LINH
TIẾT 5.
KẾT LUẬN VỀ NHÓM THẾ KỶ
Nhóm Thế Kỷ tuy chưa tạo được thành tích văn học ghi mốc như các nhóm văn tiền chiến, Tự Lực Văn Đoàn, Hàn Thuyên... nhưng với khoảng thời gian trên dưới năm năm, nhóm ấy dấu ấn khá sâu đậm nền văn học đương đại. Công hàng đầu, phải kể Bùi Xuân Uyên, chủ trương tạp chí Thế Kỷ và các cây bút chủ lực như: Ái Nhã, Phan Phong Linh, Triều Đẩu, Tạ Tỵ, Hoàng Chu Ngạc v.v... Và tạp chí này đăng truyện ngắn đầu tiên của Toàn Phong.
Nếu không có tạp chí Thế Kỷ, chưa hẳn có Triều Đẩu. Hoặc Tạ Tỵ lối viết truyện ngắn sâu sắc, thám hiểm nội tâm, nhân vật rất sống động. Phan Phong Linh, qua một số bài, chưa đủ tạo một bản sắc đầy đủ tài năng phát triển; phải đợi khi xuất bản Thắng Cảnh Việt Nam Qua Thi Ca, Phan Phong Linh mới đủ độ chín là một thi nhân tài hoa, bạc mệnh.
Trúc Sĩ nhà văn chưa là nhà văn, tác phẩm duy nhất được tán tụng Kẽm Trống, lại không phải của ông. (Người đạo văn muốn trở thành nhà văn – nhưng chưa là nhà văn được).
CÒN TIẾP ...